Kế hoạch sai lầm của Trump nhằm làm suy yếu đồng đô la
Tom Stoddart/Hình ảnh Getty
Kenneth Rogoff... Ngày 6 tháng 5 năm 2025... Project Syndicate.
Cái gọi là Hiệp định Mar-a-Lago, do Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Kinh tế Stephen Miran đề xuất, nhằm mục đích giảm thâm hụt tài khoản vãng lai của Hoa Kỳ bằng cách làm suy yếu đồng đô la. Nhưng kế hoạch này dựa trên sự hiểu biết sai lầm sâu sắc về mối quan hệ giữa vị thế toàn cầu của đồng đô la với quá trình phi công nghiệp hóa của Hoa Kỳ.
CAMBRIDGE – Bây giờ khi cuộc chiến thuế quan của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đang diễn ra, các nhà đầu tư trên toàn thế giới đang tự hỏi: Ông ta sẽ làm gì tiếp theo trong chương trình nghị sự để đảo ngược trật tự kinh tế toàn cầu? Nhiều người đang hướng sự chú ý của họ đến cái gọi là “ Hiệp định Mar-a-Lago ” – một kế hoạch được đề xuất bởi Stephen Miran , chủ tịch Hội đồng cố vấn kinh tế của Trump - phối hợp với các đối tác thương mại của Hoa Kỳ nhằm làm suy yếu đồng đô la.
Cốt lõi của kế hoạch này là quan niệm rằng, vị thế của đồng đô la như một loại tiền tệ dự trữ của thế giới không phải là một đặc quyền, mà là một gánh nặng tốn kém đã đóng vai trò chính trong quá trình phi công nghiệp hóa nền kinh tế Hoa Kỳ. Theo lập luận, nhu cầu toàn cầu đối với đồng đô la làm tăng giá trị của nó, khiến hàng hóa do Hoa Kỳ sản xuất đắt hơn hàng nhập khẩu. Điều đó, đến lượt nó, dẫn đến thâm hụt thương mại dai dẳng và khuyến khích các nhà sản xuất Hoa Kỳ chuyển sản xuất ra nước ngoài, mang theo việc làm của công nhân.
Câu chuyện này có đúng không? Câu trả lời là có và không. Chắc chắn là, các nhà đầu tư nước ngoài háo hức nắm giữ cổ phiếu, trái phiếu và bất động sản của Hoa Kỳ để có thể tạo ra dòng vốn ổn định chảy vào Hoa Kỳ, thúc đẩy tiêu dùng trong nước và thúc đẩy nhu cầu đối với cả hàng hóa có thể trao đổi như ô tô và hàng hóa không thể trao đổi như bất động sản và nhà hàng. Nhu cầu cao hơn đối với hàng hóa không thể trao đổi, nói riêng, có xu hướng đẩy giá trị đồng đô la lên, khiến hàng nhập khẩu hấp dẫn hơn đối với người tiêu dùng Hoa Kỳ, giống như Miran gợi ý.
Nhưng logic này cũng bỏ qua các chi tiết quan trọng. Trong khi vị thế của đồng đô la là đồng tiền dự trữ thúc đẩy nhu cầu về trái phiếu kho bạc, nó không nhất thiết làm tăng nhu cầu đối với tất cả các tài sản của Hoa Kỳ. Ví dụ, các ngân hàng trung ương châu Á nắm giữ hàng nghìn tỷ đô la trong trái phiếu kho bạc, qua đó họ xử dụng chúng để giúp ổn định tỷ giá hối đoái và duy trì một bộ đệm tài chính trong trường hợp xảy ra khủng hoảng. Họ thường tránh các loại tài sản khác của Hoa Kỳ, chẳng hạn như cổ phiếu và bất động sản, vì những thứ này không phục vụ cùng mục tiêu chính sách.
Điều này có nghĩa là nếu các quốc gia nước ngoài chỉ cần tích lũy trái phiếu kho bạc, họ không cần phải vận dụng thặng dư thương mại để có được chúng. Các quỹ cần thiết cũng có thể được huy động bằng cách bán các tài sản nước ngoài hiện có như cổ phiếu, bất động sản và nhà máy.
Đó chính xác là những gì đã xảy ra trong những năm 1960 đến giữa những năm 1970. Vào thời điểm đó, đồng đô la đã khẳng định vị thế vững chắc của mình như một loại tiền tệ dự trữ toàn cầu, tuy nhiên Hoa Kỳ hầu như luôn có thặng dư tài khoản vãng lai – chứ không phải bị thâm hụt. Các nhà đầu tư nước ngoài tích lũy trái phiếu kho bạc Hoa Kỳ, trong khi các công ty Hoa Kỳ mở rộng ra nước ngoài bằng cách mua lại các cơ sở sản xuất ở nước ngoài, thông qua mua trực tiếp hoặc đầu tư “greenfield”, trong đó họ xây dựng các nhà máy từ đầu.
Thời kỳ hậu chiến không phải là thời điểm duy nhất khi mà quốc gia phát hành đồng tiền dự trữ của thế giới có thặng dư tài khoản vãng lai. Đồng bảng Anh là đồng tiền dự trữ toàn cầu không thể tranh cãi từ khi kết thúc Chiến tranh Napoleon vào đầu những năm 1800 cho đến khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ vào năm 1914. Trong suốt thời kỳ đó, Vương quốc Anh thường có thặng dư bên ngoài, được hỗ trợ bởi lợi nhuận cao từ các khoản đầu tư trên khắp đế chế thuộc địa của Anh.
Có một cách khác để diễn giải thâm hụt tài khoản vãng lai của Hoa Kỳ, giúp giải thích tại sao mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và mất cân bằng thương mại lại phức tạp hơn lý thuyết của Miran. Theo thuật ngữ kế toán, thặng dư tài khoản vãng lai của một quốc gia bằng "sự chênh lệch giữa tiết kiệm quốc gia và đầu tư của cả chính phủ lẫn khu vực tư nhân". Điều quan trọng là, "đầu tư" ở đây đề cập đến tài sản vật chất như nhà máy, nhà ở, cơ sở hạ tầng và thiết bị - không phải là công cụ tài chính.
Khi xem xét qua lăng kính này, rõ ràng là thâm hụt tài khoản vãng lai không chỉ bị ảnh hưởng bởi tỷ giá hối đoái mà còn bởi bất kỳ yếu tố nào tác động đến sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư quốc gia. Năm 2024, thâm hụt tài khóa - do chi nhiều hơn thu - của Hoa Kỳ là 6,4% GDP , lớn hơn đáng kể so với thâm hụt tài khoản vãng lai, dưới 4% GDP (*).
Trong khi việc đóng thâm hụt tài khóa sẽ không tự động xóa bỏ thâm hụt tài khoản vãng lai – điều đó phụ thuộc vào cách đóng thâm hụt và cách khu vực tư nhân phản ứng – thì đây là giải pháp đơn giản hơn nhiều so với việc phát động một cuộc chiến thương mại. Tuy nhiên, việc giảm thâm hụt tài khóa sẽ liên quan đến nhiệm vụ chính trị khó khăn là thuyết phục Quốc hội thông qua các dự luật thuế (mức thu) và chi tiêu có trách nhiệm hơn. Và không giống như một cuộc đối đầu thương mại cấp cao, nó sẽ không khiến các nhà lãnh đạo nước ngoài phải nịnh hót Trump; thay vào đó, nó sẽ chuyển sự chú ý của giới truyền thông trở lại chính trị trong nước và các cuộc đàm phán của quốc hội.
Một yếu tố quan trọng khác đằng sau thâm hụt tài khoản vãng lai là sức mạnh của nền kinh tế Mỹ, nền kinh tế năng động nhất trong số các nền kinh tế lớn trên thế giới trong những năm gần đây. Điều này khiến các doanh nghiệp Hoa Kỳ trở nên đặc biệt hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Ngay cả sản xuất cũng tăng trưởng theo tỷ lệ GDP. Lý do việc làm không theo kịp là các nhà máy hiện đại được tự động hóa cao.
Kế hoạch của Miran, dù thông minh đến đâu, cũng dựa trên một chẩn đoán sai lầm. Trong khi đồng đô la đóng một vai trò là đồng tiền dự trữ hàng đầu thế giới, thì nó chỉ là một trong nhiều yếu tố góp phần vào thâm hụt thương mại dai dẳng của Hoa Kỳ. Và nếu thâm hụt thương mại có nhiều nguyên nhân, thì ý tưởng rằng thuế quan có thể là phương thuốc chữa bách bệnh là điều đáng ngờ nhất.
--------------------
_Tác giả Kenneth Rogoff là cựu kinh tế gia trưởng của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, là Giáo sư Kinh tế và Chính sách Công tại Đại học Harvard và là người nhận Giải thưởng Deutsche Bank năm 2011 về Kinh tế Tài chính.
_ Trần HSa lược dịch từ Project Syndicate.... 09/5/2025.
Nguồn ảnh : https://www.self.inc/info/us-debt-by-president/#history
(*).P/s : Thước đo thâm hụt tài khoản của một quốc gia gồm có ba loại : thâm hụt thương mại, thâm hụt tài khóa và thâm hụt tài khoản vãng lai. Thâm hụt thương mại là sự mất cân bằng giữa nhập và xuất khẩu hàng hóa, có hai loại thâm hụt thương mại đó là thâm hụt thương mại song phương do chỉ tính riêng việc mua bán giữa hai quốc gia, và thâm hụt thương mại tổng thê được tính theo toàn bộ việc mua bán của một quốc gia với toàn thể các đối tác̉. Thâm hụt tài khóa là sự mất cân bằng giữa chi và thu của một quốc gia, do chính phủ tạo ra. Thâm hụt tài khoản vãng lai liên quan đến số tiền tiết kiệm và số tiền đầu tư trong toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia, sự đầu tư từ bên ngoài vào quốc gia được xem là số tiền tiết kiệm. Như vậy thâm hụt tài khoản vãng lai là do đầu tư ra bên ngoài lớn hơn được bên ngoài và trong nước đầu tư vào nền kinh tế quốc gia.
Nợ của một quốc gia thường bắt đầu với thâm hụt tài khóa do chính phủ tạo ra và nó sẽ trở nên trầm trọng do thâm hụt tài khoản vãng lai, có nghĩa nợ sẽ trầm trọng khó gỡ khi đầu tư ra bên ngoài lớn hơn được bên ngoài và trong nước đầu tư vào nền kinh tế quốc gia, đây là hình ảnh của nền kinh tế Mỹ hiện nay. Cần biết rằng nợ của nước Mỹ lúc tổng thống Ronal Reagan nhậm chức suýt soát một ngàn tỷ usd và 8 năm sau nó đã tăng 180%, lên tới 2,8 tỷ usd; (xem hình) và không ai nói rằng nền kinh tế Mỹ dưới thời Reagan là què quặt cả.... T HSa ....