Một cuộc phong tỏa eo biển Hormuz hầu như không làm tổn thương Mỹ.
Các nhà xuất khẩu khí đốt của Mỹ có thể sẽ được hưởng lợi từ bất kỳ cuộc phong tỏa nào của Iran trong khi lỗ hổng nhập khẩu năng lượng của Trung Quốc sẽ bị phơi bày.
Việc Iran phong tỏa eo biển Hormuz có thể làm tổn thương các đồng minh của nó nhiều hơn là đối thủ. Hình ảnh: X Screengrab
Tác giả Phar Kim Beng và Luthfy Hamzah.... 24 Tháng Sáu, 2025. .. Asia Times.
Eo biển Hormuz từ lâu đã là biểu tượng của sự dễ bị tổn thương về năng lượng toàn cầu. Chiều ngang chỉ 39 km tại điểm hẹp nhất giữa Iran và Oman, nó cung cấp gần 20% nguồn cung dầu mỏ của thế giới và hơn một phần ba khí đốt tự nhiên hóa lỏng. Bất kỳ mối đe dọa nào về việc đóng cửa nó - dù là khoa trương sáo rỗng hay thực tế - chắc chắn sẽ gây ra cảnh báo trên khắp thị trường năng lượng.
Tuy nhiên, đằng sau những tiêu đề và khoa trương là một nghịch lý chiến lược: đóng cửa eo biển Hormuz sẽ không giáng một đòn kinh tế quyết định vào Hoa Kỳ. Trên thực tế, việc điều chỉnh lại kinh tế và địa chính trị đang diễn ra kể từ cuộc cách mạng đá phiến của Mỹ cho thấy Washington ít bị sơ hở hơn so với các đối thủ và thậm chí một số đồng minh của họ.
Kể từ đầu những năm 2010, Hoa Kỳ đã theo đuổi một con đường hướng tới năng lượng tự lực. Sự bùng nổ đá phiến đã biến Mỹ từ một nhà nhập khẩu ròng thành một trong những nhà sản xuất dầu hàng đầu thế giới. Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ (EIA), chưa đến 10% lượng dầu thô nhập khẩu hiện đến từ Vịnh Ba Tư.
Hơn nữa, Mỹ đã củng cố mình với Dự trữ Dầu mỏ Chiến lược (SPR) có khả năng làm giảm các cú sốc nguồn cung trong thời kỳ khủng hoảng địa chính trị. Mặc dù bị rút ra một phần trong cuộc khủng hoảng Ukraine và Gaza, Dự trữ Dầu mỏ Chiến lược vẫn là lá chắn kinh tế quan trọng.
Sự thay đổi cấu trúc này đã làm giảm đáng kể tính dễ bị tổn thương của Mỹ trước tình trạng hỗn loạn ở vùng Vịnh. Trái ngược với những cú sốc dầu mỏ vào những năm 1970, khi lệnh cấm vận của OPEC gây ra lạm phát và suy thoái trên diện rộng, nền kinh tế Mỹ ngày nay không bị ràng buộc với eo biển Hormuz.
Độc lập về năng lượng đã trở thành nền tảng trong niềm tin chiến lược của Mỹ, đặc biệt là dưới sự nhấn mạnh mới của chính quyền Trump về chủ nghĩa dân tộc tài nguyên và ngoại giao giao dịch.
Nhưng những tác động sâu sắc hơn. Đối với Tổng thống Donald Trump và các chiến lược gia trong chính sách đối ngoại của ông, thì bất kỳ sự leo thang khu vực nào ở vùng Vịnh - cho dù thông qua sự trả đũa của Iran hay sự khiêu khích của Israel - đều có thể được tận dụng như một sự leo thang có kiểm soát.
Khi Mỹ và Israel tiến hành các cuộc không kích vào các cơ sở hạt nhân Fordow, Natanz và Isfahan của Iran vào tháng 6/2025, dự đoán về việc Iran đóng cửa eo biển này có thể đã được định giá - không chỉ bởi thị trường mà còn bởi các nhà hoạch định chính sách.
Trớ trêu thay, sự gián đoạn như vậy củng cố bàn tay địa chính trị của Washington. Sự thống trị của hải quân Mỹ, đặc biệt là thông qua Hạm đội 5 đóng quân tại Bahrain, cho phép họ một lần nữa thể hiện mình là người bảo vệ tự do hàng hải.
Điều này phù hợp với các đồng minh như Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ, những nước phụ thuộc nhiều vào năng lượng vùng Vịnh. Đến lượt mình, các quốc gia này có thể làm sâu sắc hơn liên kết an ninh với Washington, củng cố mô hình trục trung tâm và nan hoa (tăm bánh xe) làm nền tảng cho vị trí hàng đầu của Mỹ trong khu vực .
Trong khi đó, các nhà sản xuất khí hóa lõng (LNG) của Mỹ có thể được hưởng lợi. Với nguồn cung LNG ở vùng Vịnh bị hạn chế và bị đe dọa, xuất khẩu của Mỹ từ các cảng ở Louisiana và Texas trở nên cạnh tranh hơn, đặc biệt là ở các thị trường châu Âu và Đông Á. Đây không chỉ là một câu chuyện an ninh - nó còn là một cơn gió kinh tế cho các cử tri quan trọng của Mỹ ở các bang giàu năng lượng.
Điều quan trọng là người ta phải phân biệt giữa áp lực lạm phát tạm thời, và sự sụp đổ kinh tế có hệ thống. Vâng, việc đóng cửa Hormuz có thể đẩy giá dầu toàn cầu lên cao, và vâng, người tiêu dùng Mỹ có thể cảm thấy khó khăn.
Nhưng nền kinh tế Mỹ rộng lớn hơn - hiện được thúc đẩy bởi dịch vụ, đổi mới kỹ thuật số và vốn tài chính hơn là phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch - có thể đón lấy những cú sốc này. Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ, được trang bị các công cụ tiền tệ và phân tích dữ liệu theo thời gian thực, đã nhiều lần thể hiện sự nhanh nhẹn trong việc ổn định dự kiến lạm phát.
Nếu nỗi đau kinh tế không được phân bổ đồng đều, thì ai sẽ phải chịu đựng nhiều nhất? Câu trả lời nằm ở hướng đông. Trung Quốc, nhà nhập khẩu năng lượng lớn nhất thế giới, dựa vào dầu mỏ vùng Vịnh để duy trì sản lượng công nghiệp và phát triển đô thị.
Bất chấp những nỗ lực đa dạng hóa nguồn cung —từ Nga đến Trung Á—Bắc Kinh vẫn phụ thuộc về mặt cấu trúc vào các tuyến đường biển mà họ không kiểm soát về mặt quân sự. Các mối đe dọa phong tỏa Eo biển Hormuz của Iran đã đặt Trung Quốc vào thế khó về mặt chiến lược: nhà cung cấp dầu hàng đầu của họ (Iran) cũng là gánh nặng tiềm tàng của họ, và điểm yếu về hàng hải của họ vẫn chưa được giải quyết.
Ấn Độ cũng thấy mình bị sơ hở. Với hơn 80% dầu được nhập khẩu, một phần đáng kể trong số đó đi qua vùng Vịnh, bất kỳ sự gián đoạn kéo dài nào cũng có thể làm tăng lạm phát và tăng trưởng kinh tế chậm lại.
Nhật Bản và Hàn Quốc cũng phải đối mặt với những rủi ro tương tự. Thiếu nguồn năng lượng trong nước và phụ thuộc sâu sắc vào chuỗi cung ứng hàng hải, cả hai cường quốc Đông Á này đều theo dõi căng thẳng vùng Vịnh với sự bất an. Tuy nhiên, không giống như Hoa Kỳ, họ không có đủ sức mạnh quân sự hoặc cơ chế dự phòng kinh tế để tác động đến kết quả.
Trong khu vực Đông Nam Á, tác động có thể tinh tế nhưng đáng lo ngại. Các nền kinh tế của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), chẳng hạn như Malaysia, Thái Lan và Philippines, phụ thuộc vào dầu mỏ Trung Đông ở các mức độ khác nhau. Biến động giá năng lượng sẽ làm trầm trọng thêm áp lực tài chính, đặc biệt là ở các nền kinh tế đang phải đối mặt với gánh nặng nợ sau đại dịch.
Tuy nhiên, ASEAN đã bắt đầu điều chỉnh lại vị thế chiến lược của mình. Dưới sự lãnh đạo của Malaysia và sự lãnh đạo của Thủ tướng Anwar Ibrahim, khối này đã ưu tiên đa dạng hóa năng lượng và hợp tác khu vực.
Malaysia và Indonesia đang mở rộng năng lực lọc dầu và đầu tư vào cơ sở hạ tầng khí hóa lõng (LNG). Thái Lan và Việt Nam đang tích hợp điện mặt trời vào lưới điện khu vực. Thay vì phản ứng, sự tái điều chỉnh dài hạn của ASEAN phản ánh khả năng thích ứng thầm lặng với sự gián đoạn mang tính toàn cầu, và từ chối bị mắc kẹt trong các lựa chọn nhị phân giữa các cường quốc.
Việc hiệu chỉnh lại này không chỉ là kinh tế mà còn là ngoại giao. Sự tham gia gần đây của ASEAN với cả Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh (GCC) và Trung Quốc trong các diễn đàn ba bên, phản ảnh một nỗ lực có ý thức nhằm giảm leo thang căng thẳng thông qua đối thoại. Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-GCC-Trung Quốc và ngoại giao theo hướng 1.5 cung cấp một nền tảng cho các phản ứng phối hợp, nhằm duy trì ổn định kinh tế mà không mặc định việc quân sự hóa.
Tuy nhiên, Mỹ thấy mình ở trong một mâu thuẫn thú vị. Mặc dù nó có thể không bị tê liệt về kinh tế do việc đóng cửa Hormuz, nhưng thách thức lâu dài của việc đóng cửa Hormuz nằm ở chổ quản lý sự không thể đoán trước các phản ứng quân sự của chính Mỹ.
Việc xử dụng Massive Ordnance Penetrator (MOP) - được thiết kế ban đầu cho phá boongke của Triều Tiên - khi xử dụng ở địa hình Iran gây ra rủi ro chiến lược. Hiệu quả của các cuộc tấn công như vậy vẫn chưa chắc chắn, vì cấu trúc địa chất và sự phức tạp dưới lòng đất của các địa điểm hạt nhân Iran, không dễ dàng bị vô hiệu hóa.
Hơn nữa, sự trả đũa của Iran, bao gồm cả cuộc tấn công tên lửa được thông báo trước vào căn cứ không quân Al Udeid ở Qatar, cho thấy Tehran tìm cách cân bằng giữa răn đe với tín hiệu ngoại giao. Sự mơ hồ này là một động thái có tính toán không chỉ đối với Washington, mà còn đối với Bắc Kinh và châu Á rộng lớn hơn. Iran không muốn bị cô lập, ngay cả khi phản ứng với sự xâm lược.
Tóm lại, việc đóng cửa eo biển Hormuz không phải là gót chân Achilles cho kinh tế của Hoa Kỳ như trước đây. Nhờ sự độc lập về năng lượng, dự trữ chiến lược, các lĩnh vực kinh tế đa dạng và các liên minh toàn cầu, Washington có thể hấp thụ cú sốc. Đối với những nước khác, đặc biệt là ở châu Á, cái giá phải trả cao hơn và các công cụ để giảm thiểu ít hơn.
------------------
_ Các tác giả :
# Tiến sĩ Phar Kim Beng, là giáo sư nghiên cứu ASEAN, Đại học Hồi giáo Quốc tế Malaysia.
# Luthfy Hamzah là nghiên cứu viên cao cấp, Strategic Pan Indo Pacific Arena, Kuala Lumpur
_ Trần HSa lược dịch từ Asia Times... 24/6/2025.