Bí ẩn về cuộc khủng hoảng nợ của Trung Quốc - Giải thích

 Nền kinh tế Trung Quốc đang vật lộn với cuộc khủng hoảng nợ ngày càng gia tăng, đặc biệt là ở cấp chính quyền địa phương, do thâm hụt tài khóa, thu nhập từ việc bán đất đai bị thu hẹp và gánh nặng nợ ngầm. Bài viết này khám phá nguồn gốc của cuộc khủng hoảng, kế hoạch cắt giảm nợ 10 nghìn tỷ nhân dân tệ của chính phủ và lý do tại sao các biện pháp này có thể chỉ trì hoãn tình trạng hỗn loạn kinh tế sâu sắc hơn là giải quyết được nó.

kinh tế của Trung Quốc

Tác giả Jiahao Yuan...18 Tháng Tư, 2025 ...Fair Observer.

Xu hướng tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc tiếp tục bị đình trệ đã trở thành đề tài nghiên cứu quan trọng và hấp dẫn đối với các nhà kinh tế trên toàn thế giới. Kể từ quý 3 năm ngoái, chính quyền trung ương Trung Quốc đã bắt đầu đưa ra một loạt các chính sách tài khóa và tiền tệ để kích thích nền kinh tế trở lại đúng hướng. Trong số tất cả các chính sách, nổi bật nhất là "kế hoạch giảm nợ" lên đến 10 nghìn tỷ nhân dân tệ (1,36 nghìn tỷ đô la Mỹ). Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra chính sách kích thích kinh tế chưa từng có này, như một phản ứng đối với cuộc khủng hoảng nợ hiện nay, vốn đã trở thành yếu tố chính ảnh hưởng đến nhiều tình huống khó khăn trên thực tế của Trung Quốc, chẳng hạn như tiêu dùng chậm chạp, đầu tư giảm, xuất khẩu giảm, thu nhập giảm và giảm phát, v.v. Nếu cuộc khủng hoảng nợ hiện nay không thể được giải quyết đúng cách, nó sẽ dần trở thành cọng rơm cuối cùng bẻ gãy con lưng lạc đà chuyên chở nền kinh tế vĩ mô của Trung Quốc.

Nợ rõ ràng và nợ ngầm

Thứ nhất, cần làm rõ rằng khoản nợ được đề cập trong bài viết không cùng loại với "bẫy nợ", mà về căn bản đã trở thành một từ thông dụng trên trường địa chính trị quốc tế. Cái gọi là "bẫy nợ" chủ yếu đề cập đến việc Trung Quốc tài trợ có chủ quyền ra bên ngoài cho các nước kém phát triển khác (LDCs). Ngược lại, khoản nợ được đề cập trong bài viết này là nợ bên trong nội địa của Trung Quốc. Cụ thể hơn, nó chủ yếu đề cập đến nợ của các chính quyền địa phương Trung Quốc. Đồng thời, kế hoạch giảm nợ của chính phủ Trung Quốc cũng nhắm vào nợ chính quyền địa phương cứ không phải là nợ do chính quyền trung ương đảm nhận.

Cho đến nay, mặc dù các phương tiện truyền thông chính thống của Trung Quốc vẫn đang cố gắng hết sức để xây dựng hình ảnh tích cực về nền kinh tế Trung Quốc, và ngăn chặn tất cả các tin tức tiêu cực, một số manh mối về các nguyên tắc căn bản thực sự vẫn có thể được đánh hơi từ dữ liệu do Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc công bố. Ví dụ, theo dữ liệu, năm 2016 chỉ có sáu tỉnh phát triển duy trì thặng dư tài khóa; Đến cuối năm 2024, chỉ có hai. 35 tỉnh còn lại đều bị thâm hụt tài chính. Mặc dù là tỉnh kinh tế hàng đầu trong số tất cả 37 tỉnh của Trung Quốc, thâm hụt tài khóa của Quảng Đông đạt 210 tỷ nhân dân tệ (28,7 tỷ USD); tương tự, Chiết Giang - tỉnh đứng thứ hai - có thâm hụt tài khóa hơn 90 tỷ nhân dân tệ (12,3 tỷ USD), và Bắc Kinh - tỉnh thứ ba - có thâm hụt hơn 90 tỷ nhân dân tệ. Tương tự như vậy, Tứ Xuyên, nằm ở phía tây nam và được coi là tỉnh kinh tế hàng đầu ở miền Tây Trung Quốc, có thâm hụt tài chính lớn nhất, với 410 tỷ nhân dân tệ (56,1 tỷ USD) vào năm 2024.

Ngoài sự sụt giảm mạnh trong doanh thu thuế của chính phủ, nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng mạnh mẽ thâm hụt tài chính địa phương của Trung Quốc là sự cạn kiệt của "tài chính đất đai" - sự thu hẹp nhanh chóng của các giao dịch đất đai địa phương. Năm 2024, doanh thu từ mua bán đất đai của Trung Quốc chỉ tương đương 50% so với năm 2021. Do các nguồn thu tài chính dần bị thu hẹp, chính quyền địa phương buộc phải vắt óc tìm kiếm các phương pháp mới để tăng doanh thu. Về mặt này, trong năm 2024, tổng "thu ngoài thuế" của chính quyền địa phương tăng 25% so với cùng kỳ năm ngoái. Hơn nữa, một số chính quyền địa phương thậm chí còn xử lý tài sản cố định khổng lồ để tăng tính thanh khoản. Một số nơi khác đã cố gắng hết sức để buộc tội và áp dụng tiền phạt, bất kể tác động của hành vi liều lĩnh coi thường pháp quyền đối với môi trường kinh doanh và / hoặc đầu tư địa phương. Trong một số ví dụ cực đoan và vô lý liên quan đến các vụ án hình sự, dân sự liên quan đến địa phương, một số chính quyền địa phương chỉ bắt giữ nghi phạm từ các thành phố khác, đồng thời đưa ra bản án nhẹ cho nghi phạm địa phương, vì lo ngại những vụ việc này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp địa phương, đặc biệt là thu thuế cho chính quyền địa phương. Ở một số tỉnh, chính quyền thậm chí đã truy tìm 30 năm trốn thuế của các doanh nghiệp, sau đó ra lệnh cho họ trả lại các khoản thuế mà họ nên (hoặc không nên)  nộp cho 20 hoặc 30 năm trước, cùng với các khoản tiền phạt cao.

Tuy nhiên, nghịch lý của vấn đề nợ của Trung Quốc dường như là, trên bề mặt, tỷ lệ nợ tổng thể của chính phủ Trung Quốc dường như không quá cao. Năm 2024, nợ của chính quyền trung ương là 30 nghìn tỷ nhân dân tệ và nợ của chính quyền địa phương là khoảng 40 nghìn tỷ nhân dân tệ, cả hai đều chỉ chiếm 55% tổng GDP. Bất ngờ, ở Hoa Kỳ và Nhật Bản, con số này lần lượt vượt quá 120% và 260%, tương ứng với thứ tự. Tuy nhiên, nhiều nhà quan sát đã bỏ qua một yếu tố quan trọng - tỷ lệ đòn bẩy tài chính của chính phủ, vốn phần lớn đã bị bỏ qua trong một thời gian dài.

Trên thực tế, 40 nghìn tỷ nhân dân tệ trong số nợ của chính quyền địa phương Trung Quốc chỉ là "nợ rõ ràng" (ED) - các khoản nợ được ghi nhận chính thức và phải trả. Trên thực tế, chính quyền địa phương cũng còn nắm giữ một lượng "nợ ngầm" (ID) khá lớn, rõ ràng là bị đánh giá thấp và khó ước tính. Đối với phần này (nợ ngầm), tổng số dư được công bố chính thức là 13,4 nghìn tỷ nhân dân tệ. Ngược lại, một số nhà kinh tế Trung Quốc ước tính khoảng 40 nghìn tỷ nhân dân tệ. Về mặt này, dữ liệu mà tác giả thu được từ các kênh tạm thời không thể công khai thì con số chính xác nhất phải là 60 nghìn tỷ nhân dân tệ. Do đó, mục tiêu chính của kế hoạch giảm nợ 10 nghìn tỷ nhân dân tệ của chính phủ Trung Quốc về căn bản là hướng vào nợ ngầm  thay vì nợ rõ ràng.

Nguyên nhân gốc rễ của khoản nợ ngầm.

Sự xuất hiện của nợ ngầm là một câu chuyện dài có thể bắt nguồn từ mối quan hệ tài chính giữa chính quyền trung ương và địa phương trong lịch sử Trung Quốc. Từ thời cổ đại, đã có những xung đột liên tục giữa chính quyền trung ương và địa phương của Trung Quốc về quyền lực tài chính và hành chính. Kể từ khi Tần Thủy Hoàng (秦始皇) thống nhất Trung Quốc và thành lập một thể chế tập trung vào năm 221 trước Công nguyên, mâu thuẫn giữa sự phân bổ quyền lực trung ương và địa phương chưa bao giờ được loại bỏ. Một mặt, mô hình tập trung hóa đại diện cho hệ tư tưởng cấp cao nhất và quyền ra quyết định hành chính. Mặt khác, quyền lực địa phương do đó trở thành một khái niệm tương đối rộng, vì nó thay mặt cho một hệ thống quan liêu khổng lồ, đặc biệt thực hiện tập trung hóa trên toàn quốc. Trong hàng ngàn năm lịch sử của Trung Quốc, mối quan hệ giữa hai loại chính quyền là "một bên sụp đổ, bên kia tăng lên" và ngược lại. Do đó, mối quan hệ cạnh tranh giữa quyền lực tập trung và quyền lực địa phương gần như đã quyết định mô hình phát triển kinh tế của Trung Quốc trong hàng ngàn năm qua.

Ví dụ, triều đại nhà Đường (618-907) đã hình thành một mô hình "chính quyền trung ương yếu và chính quyền địa phương mạnh", cho đến khi cuối cùng quyền lực của chính quyền địa phương thậm chí đe dọa cả sự ổn định của chính quyền trung ương. Do đó, triều đại nhà Minh (1368-1644) bắt đầu củng cố mạnh mẽ quyền lực của chính quyền trung ương, mở ra một kỷ nguyên "chính quyền trung ương mạnh mẽ và chính quyền địa phương yếu". Lợi ích do điều này mang lại là sự ổn định của chính quyền trung ương, nhưng đồng thời nó bóp nghẹt sức sống của nền kinh tế tư nhân và sự đa dạng hóa của việc phát triển xã hội. Nói cách khác, mục đích căn bản của sự điều chỉnh liên tục giữa trung ương tập quyền và quyền lực địa phương là nhằm tạo điều kiện cho các lực lượng địa phương có đủ quyền và lợi ích, đồng thời bảo đảm sự kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chế độ và nền kinh tế. Đây là một mâu thuẫn lớn lâu đời trong lịch sử phát triển kinh tế của Trung Quốc. Trong thuật ngữ kinh tế đương đại, nó có thể được hiểu là kích thích nền kinh tế tư nhân và phát triển địa phương chất lượng cao trong khi vẫn duy trì khả năng tập trung hóa mạnh mẽ và kiểm soát ở tầm vĩ mô của chính quyền trung ương.

Gần đây hơn, kể từ khi chính sách mở cửa của Trung Quốc vào năm 1979 và sau đó, biện pháp quan trọng nhất trong việc điều chỉnh mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và địa phương là cải cách "chia xẻ thuế" diễn ra vào năm 1993. Trước khi cải cách chia xẻ thuế, doanh thu tài chính của chính quyền trung ương Trung Quốc chỉ chiếm 25% tổng thu nhập tài chính của đất nước. Thay vào đó, chính quyền địa phương chia xẻ tới 75%, làm cho sức mạnh tài chính của chính quyền địa phương mạnh hơn đáng kể so với chính quyền trung ương. Do đó, chính quyền địa phương đã tận dụng các chính sách cải cách và mở cửa vào năm 1979, điều này đã thúc đẩy Trung Quốc loại bỏ một phần hệ thống kinh tế được quy hoạch ban đầu. Nói cách khác, để thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương, chính quyền trung ương bắt đầu dần phân quyền cho chính quyền địa phương từ năm 1979, và chính quyền địa phương bắt đầu độc lập lập ngân sách và được hưởng một mức độ kiểm soát tài khóa nhất định.

Sau đó, cải cách chia xẻ thuế năm 1993 một lần nữa phá vỡ sự cân bằng này. Từ đó, tỷ lệ phân phối thu nhập giữa trung ương và địa phương dần chuyển sang 50/50. Tuy nhiên, điều này gây ra sự mất cân bằng nghiêm trọng trong việc phân chia quyền lực và trách nhiệm giữa chính quyền trung ương và địa phương, điều này đặt ra một mối nguy hiểm tiềm ẩn rất lớn cho sự phát triển sau này của nền kinh tế Trung Quốc.

Mục đích chính là điều chỉnh phân phối thu nhập đồng đều giữa chính quyền trung ương và địa phương.  Tuy nhiên, trách nhiệm trên vai chính quyền địa phương dường như nặng nề hơn chính quyền trung ương, vì nhiệm vụ thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương chủ yếu thuộc về chính quyền địa phương. Chậm nhưng chắc chắn, kết quả của kiểu phân phối không đồng đều này là khi ở trong tình trạng nguồn lực hạn chế, chỉ những quan chức chính quyền tỉnh có thể làm tốt hơn trong phát triển kinh tế địa phương mới có nhiều cơ hội được thăng chức. Do đó, nó dẫn đến sự trỗi dậy của cái gọi là "đặc điểm của Trung Quốc", một thuật ngữ thường được xử dụng trong các phương tiện truyền thông Trung Quốc để chỉ sự cạnh tranh ngoạn mục giữa các địa phương.

Về bản chất, một chiến lược phát triển như vậy là sự phản ảnh mạnh mẽ thể chế chính trị "từ trên xuống dưới" lâu đời của Trung Quốc, tức là các quan chức chính phủ chỉ phải chịu trách nhiệm với cấp trên của họ. Đối với cấp độ thấp hơn, nó thường không liên quan đến họ. Như người ta có thể tưởng tượng, cách trực tiếp nhất để thể hiện thành tựu của họ với cấp trên là GDP đã tăng trưởng bao nhiêu, và giá trị sản lượng của các doanh nghiệp địa phương đã mở rộng bao nhiêu. Nhân tiện, đây cũng là lý do căn bản khiến khái niệm phát triển kinh tế của Trung Quốc từ lâu đã nhấn mạnh đầu tư hơn tiêu dùng, doanh nghiệp hơn sinh kế của người dân, tài sản đất đai hơn là tiến bộ công nghệ.

Đương nhiên, theo chiến lược phát triển kinh tế như vậy, phát triển kinh tế địa phương phải đòi hỏi một lượng lớn chi tiêu tài chính và chi tiêu công. Điều này cuối cùng dẫn đến thực tế là tổng chi tiêu tài chính địa phương chiếm hơn 80% chi tiêu tài chính quốc gia ở thời kỳ cao điểm. Nói cách khác, chính quyền trung ương để lại một nửa doanh thu tài khóa cho chính quyền địa phương, nhưng chính quyền địa phương phải chịu 80% trách nhiệm phát triển kinh tế của Trung Quốc, điều này làm tăng đáng kể gánh nặng của chính quyền địa phương.

Do đó, để kích thích sự nhiệt tình của chính quyền địa phương và tuổi thọ của nền kinh tế địa phương, chính quyền trung ương bắt đầu hỗ trợ chính quyền địa phương bù đắp khoảng trống tài khóa, thông qua các khoản trợ cấp ngày càng lớn (còn được gọi là "chuyển khoản thanh toán"). Đối với chính quyền trung ương, cách tiếp cận này có thể cân bằng sự chênh lệch về thu chi giữa các khu vực khác nhau, trong khi vẫn duy trì quyền lực trong tay mình. Tuy nhiên, do tổng số tiền trợ cấp hạn chế, việc chuyển khoản thanh toán chỉ có thể đáp ứng nhu cầu chi tiêu tài chính thường xuyên của chính quyền địa phương. Đặc biệt, kinh phí chỉ được phân bổ cho cấp tỉnh. Điều kiện tài chính của hầu hết các thành phố và quận vẫn chưa được bảo đảm. Do đó, chính quyền trung ương một lần nữa phát minh ra hai công cụ chính sách quan trọng: một là cho phép tất cả thu nhập từ việc bán đất được giữ lại trong tài chính địa phương; Hai là dần dần chỉ định chính quyền địa phương quyền phát hành trái phiếu ở địa phương. Liên quan đến công cụ chuyển khoản thanh toán, cuối cùng, ba "cái ví tiền" chính của chính quyền địa phương đã chính thức được hình thành: phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, trợ cấp từ chính quyền trung ương và tài chính từ đất đai.

Giải quyết nợ với "đặc điểm của Trung Quốc".

Trên thực tế, theo lẽ thường, nợ từ trái phiếu không thể phát hành không giới hạn và không thể tăng trưởng liên tục, điều này đã trở thành sự đồng thuận của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trên thực tế, không chỉ chính phủ Hoa Kỳ có trần nợ nghiêm ngặt, mà chính quyền trung ương Trung Quốc cũng có một ranh giới đỏ rõ ràng đối với chính quyền địa phương, yêu cầu hầu hết các khoản nợ do chính quyền địa phương phát hành phải có mục đích cụ thể. Tuy nhiên, vào năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đột ngột đã phá vỡ sự yên tĩnh ban đầu và làm gián đoạn kế hoạch kiểm soát kinh tế vĩ mô của Trung Quốc, buộc Trung Quốc phải dựa vào đầu tư quy mô lớn để kích thích phục hồi kinh tế. Tuy nhiên, đầu tư đòi hỏi tiền. Do đó, vào năm 2009, Thủ tướng Ôn Gia Bảo khi đó đã đưa ra kế hoạch kích thích kinh tế "4 nghìn tỷ nhân dân tệ". Cụ thể, chính phủ sẽ đầu tư 1,2 nghìn tỷ nhân dân tệ vào vốn chung và chính quyền địa phương sẽ đầu tư 2,8 nghìn tỷ nhân dân tệ còn lại. Tuy nhiên, nếu chính quyền địa phương không thể có đủ kinh phí, kế hoạch cuối cùng sẽ phải đối mặt với số phận thất bại, điều này sẽ làm tổn hại không chỉ uy tín và thanh thế của chính quyền trung ương Trung Quốc, mà còn cả nền kinh tế Trung Quốc. Vào thời điểm đó, nền kinh tế Trung Quốc thực sự đã đạt đến điểm mà nó phải cần được cứu vãn. Ở một góc độ khác, chính quyền trung ương vẫn rất cảnh giác với việc tăng trần nợ của chính quyền địa phương, lo ngại động thái này sẽ khiến họ mất kiểm soát tài chính của chính quyền địa phương. Cuối cùng, chính quyền trung ương một lần nữa đổi mới và tạo tiền lệ cho chính quyền địa phương đầu tư thành lập các công ty do chính phủ kiểm soát (thường được gọi là "công ty nền tảng chính phủ" hoặc GPC) để tiến hành tài trợ thương mại nhân danh các công ty.

Ngoài các công ty do chính phủ kiểm soát, một loạt các biện pháp tạm thời khác đã được thực hiện đồng bộ để đối phó với sự trì trệ kinh tế vĩ mô sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Áp dụng cho Trung Quốc, các công ty do chính phủ kiểm soát (GPC) không chỉ giúp giải quyết tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính mà quan trọng nhất, sự đổi mới này cho phép chính quyền địa phương lần đầu tiên nếm trải niềm hạnh phúc của "chiếc bánh từ trên trời rơi xuống" - có được một khoản tài chính lớn một cách dễ dàng và nhanh chóng. Do đó, ngày càng nhiều, ngay cả sau khi Trung Quốc hoàn toàn vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, "sự đổi mới" này nhanh chóng trở thành một thỏa thuận dài hạn của thể chế .

Về mặt lý thuyết, việc tài trợ cho các công ty do chính phủ kiểm soát không thuộc nợ trực tiếp của chính quyền địa phương, do đó, chúng không được tính là nợ địa phương trong bảng cân đối kế toán của chính quyền địa phương. Tuy nhiên, chính quyền địa phương vẫn đứng sau hậu trường và phải chịu nghĩa vụ trả nợ cuối cùng, trở thành tuyến phòng thủ cuối cùng. Hơn nữa, do sự phức tạp của các đơn vị vay, cấu trúc vốn chủ sở hữu, việc xử dụng quỹ, v.v., tổng số tiền của loại nợ này rất khó tính toán chính xác. Ví dụ, khi công ty do chính phủ kiểm soát vay 100 triệu đô la Mỹ từ một ngân hàng, 70 triệu được chi cho việc xây dựng xanh hóa đô thị, và số còn lại được xử dụng cho các dự án thương mại khác có lợi ích kinh tế. Trong trường hợp này, bao nhiêu trong số 100 triệu nhân dân tệ nên được coi là nợ của chính quyền địa phương và bao nhiêu trong số đó nên được phân loại là nợ thương mại, nó trở thành một bí ẩn không thể giải thích rõ ràng.

Cuối cùng, việc không có khả năng phân biệt chính xác dẫn đến các định nghĩa không rõ ràng, từ đó dẫn đến xung đột động cơ và lỗ hổng pháp lý. Cùng với sự cạnh tranh gay gắt về tăng trưởng GDP khu vực giữa các chính quyền địa phương, nợ ngầm đã nhanh chóng mở rộng kể từ năm 2008 và cuối cùng đã trở thành mối đe dọa có khả năng xảy ra cao, có tác động lớn nhất nhưng lại bị bỏ qua trong nền kinh tế Trung Quốc.

Trên thực tế, kể từ khi bắt đầu thời kỳ hoàng kim của việc xây dựng cơ sở hạ tầng quy mô lớn của Trung Quốc và sự phát triển nhanh chóng của lĩnh vực bất động sản vào những năm 1990, khách quan mà nói, các công ty do chính phủ kiểm soát thực sự đã có những đóng góp to lớn vào sự tăng vọt của nền kinh tế khu vực Trung Quốc. Xây dựng cơ sở hạ tầng quy mô lớn đương nhiên là dấu hiệu của giá nhà cao hơn, do đó tạo thành sự gia tăng liên tục trong doanh thu bán đất và thu nhập cao, cuối cùng đã thúc đẩy vòng xây dựng cơ sở hạ tầng quy mô lớn tiếp theo. Từng bước một, sự lưu thông này trở thành một trò chơi mà người ta không thể ngừng chơi. Một khi dừng lại, mọi người đều chết. Kết quả là, các khoản nợ rõ ràng và nợ ngầm của địa phương cùng nhau đã tăng lên ồ ạt, giống như một chiếc ô tô chạy quá tốc độ trên đường cao tốc với lốp xe bị xẹp. Một khi đạp phanh, hậu quả sẽ rất thảm khốc.

Tuy nhiên, kế hoạch giảm nợ 10 nghìn tỷ nhân dân tệ đơn giản là không đủ để trang trải tất cả các khoản nợ ngầm của chính quyền địa phương hiện tại và chính quyền trung ương nhận thức rất rõ điều này. Do đó, về căn bản, những gì chính quyền trung ương dự định làm không phải là hỗ trợ chính quyền địa phương trả hết các khoản nợ, mà là giúp "trì hoãn" chúng. Điều này thường được thực hiện bằng cách thay thế các khoản nợ ngầm ngắn hạn, lãi suất cao bằng các khoản nợ rõ ràng dài hạn, lãi suất thấp.

Cụ thể, 10 nghìn tỷ nhân dân tệ từ chính quyền trung ương được chia thành hai phần là "6 + 4". Thứ nhất, chính quyền trung ương sẽ cho phép chính quyền địa phương tăng hạn ngạch phát hành 6 nghìn tỷ nhân dân tệ trái phiếu địa phương trong ba năm tới. Nói cách khác, nó cho phép chính quyền địa phương phát hành trái phiếu rõ ràng hơn 6 nghìn tỷ nhân dân tệ. Mục đích là cho phép chính quyền địa phương duy trì khả năng tiếp tục tài trợ và trả một phần các khoản nợ cũ mà các công ty do chính phủ kiểm soát nợ. Đối với phần còn lại, 800 tỷ nhân dân tệ sẽ được thu xếp từ trái phiếu đặc biệt của chính quyền địa phương, mới được bổ sung mỗi năm, để trả nợ trong năm năm liên tiếp trong tương lai, tổng cộng là 4 nghìn tỷ nhân dân tệ trong năm năm.

Cần phải giải thích rằng nợ địa phương của Trung Quốc thường được chia thành nợ chung và nợ đặc biệt, trong đó nợ đặc biệt chiếm phần lớn. Khoản nợ đặc biệt chủ yếu dành cho các mục đích cụ thể và thường được đầu tư vào các dự án có lãi. Tuy nhiên, sau nhiều thập kỷ cải cách và mở cửa kinh tế, các dự án có lợi nhuận cao và năng suất cao ngày càng trở nên khó tìm thấy ở Trung Quốc. Như vậy, việc đưa một lượng lớn các khoản nợ đặc biệt ra thị trường hiện nay trở thành một nhiệm vụ khó khăn. Đối với bản thân chính quyền địa phương, họ cũng cảnh giác với rủi ro cao khi đầu tư vốn vào các dự án có triển vọng phát triển không chắc chắn. Cuối cùng, họ thường chỉ đơn giản là dành một phần của nó để giảm nợ, biến khoản nợ ngầm ở các công ty do chính phủ kiểm soát nắm giữ thành khoản nợ rõ ràng với ngân hàng.

Tóm lại, mục đích trực tiếp nhất của cái gọi là giảm nợ của chính phủ Trung Quốc là ngăn chặn nợ bùng nổ trong ngắn hạn. Thông qua việc thực hiện các công cụ nêu trên, họ sẽ tiết kiệm cho chính quyền địa phương khoảng 600 tỷ nhân dân tệ (82,1 tỷ đô la Mỹ) chi phí lãi vay trong năm năm tới, tương đương với việc giảm áp lực trả nợ hàng tháng của chính quyền địa phương trong khi vẫn giữ nguyên nợ gốc. Mặc dù điều này không thể giải quyết những mâu thuẫn căn bản trong nền kinh tế Trung Quốc, nhưng nó có thể mang lại cho hệ thống chính trị và kinh tế vốn đã kiệt quệ của Trung Quốc không gian thở quý giá trong ngắn hạn. Tuy nhiên, từ một góc độ khác, cái giá phải trả cho không gian thở như vậy cũng rất lớn. Tức là, kế hoạch giảm nợ đặt chiếc xe trước con ngựa: nó không những không thể làm cho nợ biến mất mà còn rất có thể là một công cụ để tiếp tục tăng tổng quy mô của khoản nợ rõ ràng.

Con đường phía trước cho vấn đề nợ của Trung Quốc.

Cho đến nay, chính phủ Trung Quốc đã thực hiện một loạt các biện pháp để cố gắng giải quyết cuộc khủng hoảng nợ, nhưng nếu các vấn đề sau đây không được giải quyết đúng cách, cuộc khủng hoảng nợ sẽ luôn kéo dài như một cái bóng và thậm chí có thể trở thành một lực lượng quan trọng lật đổ nền kinh tế Trung Quốc vốn đã đi suôn sẻ trong nửa thế kỷ.

Đầu tiên và quan trọng nhất, kế hoạch giảm nợ của Trung Quốc về căn bản là xử dụng nhiều nợ hơn để giải quyết các khoản nợ hiện có. Hiện tại, do một số yếu tố như quốc phòng, lảo hóa và áp lực chi tiêu an sinh xã hội, áp lực chi tiêu tài khóa tổng thể của chính phủ Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng trong tương lai. Đặc biệt, khi vấn đề dư thừa công suất nghiêm trọng trong nhiều ngành không còn hỗ trợ cho Trung Quốc tiếp tục đầu tư lặp đi lặp lại với quy mô lớn, làm thế nào để thanh khoản tăng thực sự, đóng vai trò tích cực trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững là một câu hỏi hóc búa phải được giải quyết.

Thứ hai, suy đoán của nhà nước. Giả sử có một thị trấn nhỏ ở đâu đó trên thế giới. Do thu nhập giảm, cư dân của thị trấn đã giảm đáng kể mức tiêu dùng của họ. Đồng thời, giá nhà bắt đầu giảm mạnh do tất cả cư dân đều mắc nợ từ lâu do đầu cơ bất động sản. Trong thị trấn có một nhà hàng. Do tiêu dùng yếu, cư dân ở đây không có tiền để trả 100 nhân dân tệ tiền nợ của tiệm thịt. Tương tự, cửa hàng thịt không thể trả100 nhân dân tệ tiền nợ hiệu thuốc. Đồng thời, hiệu thuốc cũng nợ cửa hàng vải 100 nhân dân tệ. Bằng cách này, hết mắt xích này đến mắt xích khác, cả thị trấn rơi vào vòng luẩn quẩn do thiếu thanh khoản. Không ai tiêu thụ, do đó những cửa hàng kinh doanh dần trở nên tồi tệ hơn. Đột nhiên, một khách du lịch đi ngang qua thị trấn đã chi 100 nhân dân tệ cho một bữa ăn trong nhà hàng. Sau đó, nhà hàng có thể trả 100 nhân dân tệ cho cửa hàng thịt. Dần dần, khoản nợ của mọi người được giải quyết, và mỗi người trong số họ có thể thở phào nhẹ nhõm. Người dân thị trấn bắt đầu đi chơi và tiêu dùng trở lại, và nền kinh tế của thị trấn cuối cùng đã lấy lại sức sống. Đồng thời, con trai của chủ tiệm thịt cưới con gái của chủ hiệu thuốc vì bây giờ anh ta đã có tiền trở lại. Cả hai không chỉ sống hạnh phúc mà còn có con, dẫn đến tỷ lệ sinh của thị trấn tăng và dân số già giảm.

Trong quý 3 của năm 2024, 10 nghìn tỷ nhân dân tệ từ chính quyền trung ương Trung Quốc tương xứng với việc bơm 100 nhân dân tệ thanh khoản vào thị trấn. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất là nếu nhà hàng không trả 100 nhân dân tệ cho người bán thịt sau khi nhận được, và thay vào đó đầu cơ trên thị trường chứng khoán hoặc thị trường bất động sản, thì kết thúc của câu chuyện này sẽ hoàn toàn khác. Nói cách khác, liệu việc bơm 10 nghìn tỷ nhân dân tệ có thể tập trung vào nền kinh tế thực và thực sự làm tăng thu nhập của người dân Trung Quốc bình thường hay không, hoặc liệu nó một lần nữa sẽ trở thành vòng vốn đầu tư mới cho các lợi ích sẽ là yếu tố quan trọng quyết định liệu nền kinh tế Trung Quốc có thể thực sự thoát khỏi hoàn cảnh hiện tại hay không.

Thứ ba, công bằng. Để thúc đẩy tiêu dùng hơn nữa, một số nước phát triển, chẳng hạn như Mỹ và Nhật Bản, đôi khi đã phát hành phiếu giảm giá tiêu dùng và các hình thức trợ cấp khác tương đương tiền mặt cho công dân của họ, đặc biệt là những người ở dưới đáy xã hội. Mặc dù Trung Quốc cũng đã bắt đầu bắt chước các chính sách tương tự kể từ quý 1 trong năm nay, những người nhận ở Trung Quốc xã hội chủ nghĩa chỉ bao gồm các công chức đã thuộc nhóm thu nhập cao. Ví dụ, vào đầu năm nay, chính quyền trung ương bắt đầu ồ ạt tăng lương cho công chức, bất chấp thực tế là hơn một tỷ người dân Trung Quốc bình thường vẫn đang sống trong tình trạng khó khăn.

Nếu chính phủ Trung Quốc khăng khăng tiếp tục bỏ rơi 1,3 tỷ người dân Trung Quốc bình thường và tin rằng sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ngày càng tăng của 1,4 tỷ người Trung Quốc chắc chắn sẽ có thể thúc đẩy tiêu dùng tổng thể, thì cuối cùng, có lẽ chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi nền kinh tế Trung Quốc rơi sâu hơn nữa vào vực thẳm vô tận trong tương lai.

Chắc chắn, các vấn đề mà nền kinh tế Trung Quốc phải đối mặt ngày nay không chỉ là nợ. Ví dụ, một lỗ hổng thể chế kinh niên khác ở Trung Quốc là hệ thống đăng ký hộ khẩu. Nhìn chung, thông qua hai công cụ chính là hệ thống chia xẻ thuế và hệ thống hộ khẩu, chính phủ Trung Quốc đã giữ phần lớn doanh thu thuế ở các thành phố, khiến người lao động có hộ khẩu huyện thị và hộ khẩu ngoại tỉnh trở thành mục tiêu bị hút máu trong một thời gian dài. Điều này cuối cùng đã dẫn đến sự chênh lệch thu nhập lớn giữa thành thị và nông thôn - một yếu tố căn bản khác gây ra sự thụt lùi hiện tại của nền kinh tế Trung Quốc.

-------------------
_  Tác giả bút danh Jiahao Yuan (Gia Hạo Nguyên ) là một nhà kinh tế Trung Quốc đã tham gia vào hợp tác kinh tế đối ngoại của Trung Quốc, chiến lược “Vành đai và Con đường” và các vấn đề quốc tế trong 20 năm. Jiahao có nhiều kinh nghiệm trong các vấn đề quốc tế, đặc biệt là trong chiến lược hợp tác kinh tế đối ngoại và phát triển của Trung Quốc. 

_ Trần HSa lược dịch từ Fair Observer... 25/4/2025.

Bài đăng phổ biến từ blog này

Máy bay ném bom tiên tiến nhất của Trung Quốc được nhìn thấy trên đảo tranh chấp ở Biển Đông.

Vụ sát hạch hạt nhân của Trump.

Đã đến lúc Thượng viện GOP nổi dậy về các biện pháp trừng phạt chống lại Putin.