Bài diễn văn từ chức của Tổng thống Nguyễn văn Thiệu


 
Kính thưa ngài phó tổng thống, ngài chủ tịch thượng viện, ngài chủ tịch hạ viện, ngài chủ tịch tòa án tối cao, thưa ngài thủ tướng, ngài chủ tịch thanh tra chính phủ, thưa các thượng nghị sĩ và dân biểu thân mến. Thưa các vị thẩm phán, các vị thanh tra tối cao, các thành viên của chính phủ và các cố vấn chính phủ thân mến. Thưa các anh em quân đội và cảnh sát thân mến, thưa đồng bào thân mến, thưa anh chị em chiến sĩ và cán bộ thân mến :

Trước hết, cho phép tôi xin lỗi vì hôm nay đã nói chuyện trực tiếp với quý vị mà không chuẩn bị thông điệp cho quý vị, cho đồng bào cả nước.

Thưa các anh chị em chiến sĩ và cán bộ, bởi vì vấn đề khẩn cấp đòi hỏi một quyết định khẩn cấp và bí mật tối đa, vì lý do an ninh quốc gia, tôi xin phép mời các thành viên của quốc hội lưỡng viện, các thành viên của tòa án tối cao, các thành viên của các cơ quan hiến pháp và tất cả quý vị, hiện diện ở một bối cảnh mà rất khác với dinh Độc lập, để nghe xem một thông báo rất ngắn. Điều này cũng đúng với đồng bào và các anh chị em chiến sĩ, đây là một cuộc nói chuyện rất quan trọng, nhưng nó đã không được thông báo trước, vì lý do an ninh quốc gia và vì tầm quan trọng của câu chuyện an ninh quốc gia, tôi xin phép đồng bào và anh em chị em chiến sĩ, cán bộ, và các thành viên cảnh sát trên toàn quốc, hiểu và thông cảm cho điều đó.

Nếu thời gian cho phép, tôi sẽ triệu tập một phiên họp khoáng đại với quốc hội lưỡng viện cùng sự hiện diện của tòa án tối cao, các tổ chức quần chúng và các tôn giáo khác nhau, như vậy tôi có thể đề cập về tình huống mà tôi sắp giải thích tỉ mỉ vào hôm nay. Tôi mong quý vị hào phóng thứ lỗi cho tôi trong việc đối phó với vấn đề cấp bách này theo cách như thế này; thật là hợp lý để nói rằng, phong cách này hoàn toàn không phù hợp với lễ nghi cung cách.

Thưa quý vị, thưa đồng bào, thưa anh chị em:

Hôm nay, tôi có thể đánh giá một cách tóm tắt những diễn biến ở đất nước chúng ta. Kể từ ngày đảm nhận vai trò lãnh đạo, tôi đã trải qua hai nhiệm kỳ tổng thống và nhiệm kỳ thứ hai của tôi sẽ hết hạn sau vài tháng nữa.

Năm 1965, ở miền Nam Việt Nam này, chúng ta chỉ kiểm soát được một nửa toàn bộ dân số và khoảng một nửa lãnh thổ, tình hình rất nghiêm trọng, cộng sản xâm lược đã chiếm thế thượng phong và về mặt quân sự đã có thể chiến thắng chúng ta trong một thời gian rất ngắn.

Lúc đó nhờ có sự can thiệp mạnh mẽ và quyết tâm vững chắc của đồng minh Hoa Kỳ, và các đồng minh khác của chúng ta, nhờ vào sự hiện diện của nửa triệu quân đồng minh từ sáu quốc gia đồng minh, và nhờ vào việc xử dụng hiệu quả các lực lượng không quân và hải quân của Mỹ, trừng phạt quân xâm lược bắc việt cả ở miền bắc lẫn miền nam, chúng ta đã tiến tới một tình huống rất tốt vào năm 1968.

Vào lúc đó cộng sản bắc việt ở vị thế suy yếu. không chịu nổi bom đạn, bắc việt đồng ý đến Paris để đàm phán. Những người cộng sản đã đồng ý làm như vậy bởi vì họ có một mục tiêu duy nhất, đó là Hoa kỳ phải kết thúc một cách vô điều kiện và vĩnh viễn các cuộc không kích của Mỹ chống lại bắc việt. chỉ khi nào các cuộc không kích của Mỹ kết thúc thì bắc việt mới có thể có cơ hội vực dậy một lần nữa và xây dựng lại năng lực tấn công của họ, để chuẩn bị tung ra một cuộc xâm lược mới, thậm chí còn mạnh mẽ hơn nhằm đảo ngược cục diện. Do đó, cộng sản đã có một mục tiêu. mục đích của họ là gì? họ muốn…(lời nói không nghe rõ --fbis) đồng minh của chúng ta chỉ muốn đàm phán hòa bình, mặc dù họ đã thấy trước rằng họ sẽ chẳng đạt được điều gì cả.

Vì lý do này, không có gì ngạc nhiên khi từ năm 1968 đến năm 1972, hòa đàm không tiến triển, cộng sản ngày càng ương ngạnh nhiều hơn, vừa đánh vừa đàm, vừa đàm vừa đánh. Họ đã khéo léo áp dụng chiến thuật này, họ đã thành công trong việc đánh lừa thế giới và nước Mỹ.

Vào năm 1972, khi cộng sản trở nên mạnh mẽ, đó là điều thứ nhất, sau khi họ có 4 năm xây dựng các đơn vị chính quy cấp quân đoàn, sư đoàn và nhận được hàng ngàn xe tăng và pháo binh từ Liên Xô và Trung Cọng, họ đã phát động một cuộc tổng tấn công vào mùa hè.

Cộng sản muốn đảo ngược cục diện bằng một chiến thắng quân sự, tuy nhiên, sau đó chúng ta đã đẩy cộng sản ra khỏi Bình long, Kontum, Bình Định và Quãng Trị. kết quả là, họ đã đồng ý đàm phán vì họ bị khuất phục, cần phục hồi. Thậm chí với nhiều cuộc không kích nặng nề hơn nên tiềm năng của họ không cho phép họ tiếp tục xâm lược, nếu họ không đồng ý đàm phán nghiêm túc, họ sẽ bị tiêu diệt vĩnh viễn.

Chiến lược của cộng sản là như sau: khi họ mạnh về mặt quân sự, họ chiến đấu một cách mạnh mẽ trong khi đàm phán một cách chiếu lệ, và khi họ yếu về quân sự, họ chiến đấu theo cách yếu kém nhưng năng nổ trong các cuộc đàm phán. họ đồng ý nối lại các cuộc hòa đàm. Nhưng sau những tranh cãi giữa phía Nam Việt nam - Hoa kỳ và phía cộng sản, họ nối lại bàn hội nghị Paris, nhưng chúng ta nhận ra rằng họ đánh trống lãng, cố trì hoản.

Vào thời điểm đó, có sự thông đồng giữa cộng sản và Hoa Kỳ nhằm đạt được thỏa thuận vào ngày 26 tháng 10 năm 1972. Thỏa thuận này, cái mà tôi đã dành nhiều thời gian để giải thích cho đồng bào - tôi chắc chắn rằng đồng bào vẫn còn nhớ nó - là một thỏa thuận mà theo đó Hoa kỳ bán miền Nam Việt nam cho cộng sản.

Tôi đã có đủ can đảm nói với ngoại trưởng Mỹ, Kissinger tại thời điểm đó như sau: nếu ông chấp nhận thỏa thuận này, điều này có nghĩa là ông chấp nhận bán Nam Việt nam cho cộng sản bắc việt. Về phần tôi, nếu tôi chấp nhận thỏa thuận này, tôi sẽ là một tên phản bội và là kẻ bán nước, và bán lãnh thổ miền Nam Việt nam cho cộng sản. Nếu ông chấp nhận nó, điều này là vì lợi ích của Mỹ hoặc vì một lý do riêng tư nào đó mà tôi không biết. Cái thứ ngu ngốc này là một sự chia xẻ lợi ích giữa ông với những quyền lực mà ông không biết. Ông thực hiện một số nhượng bộ hoặc đổi chác giữa các ông, ông muốn bán lợi ích và cuộc sống của người dân Nam Việt nam, mà như là tôi, một người Việt nam, tôi không thể làm như vậy.

Tôi từ chối chấp nhận thỏa thuận này, tôi phản đối thỏa thuận này trong vòng 3 tháng. Trong 3 tháng đó, tôi đấu tranh mãnh liệt cho ba điểm chính. Cuộc đấu tranh sinh tử của tôi đã được chứng thực bởi thực tế là tôi đã mời gặp mặt với chủ tịch thượng viện Nguyễn văn Huyến, chủ tịch hạ viện Nguyễn bá Cẩn, bộ trưởng ngoại giao, chánh án tòa án tối cao, phó thủ tướng, tổng tham mưu trưởng, các thứ trưởng và, đôi khi, một vài chính trị gia.

Đây là ba điểm mà tôi nói có thể dẫn đến mất nước :

Thứ nhất là chính phủ ba thành phần ở thượng tầng mà sẽ chỉ huy hai chính phủ Việt Nam Cọng Hòa (RVN) và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt nam (NFLSV), và chính phủ liên hiệp ba thành phần này sẽ thực hiện quyền lực xuống cấp tỉnh, huyện, thôn, ấp. Theo tôi, đây là một chính phủ liên hiệp không thể chấp nhận được, bất kể hình thức hoặc cấp độ của nó.

Tôi đã không chấp nhận một chính phủ như vậy 5 hay 7 năm trước, tôi đã không chấp nhận một chính phủ như vậy ở cấp trung ương - đây là chưa kể cấp làng hoặc ấp. Tôi cũng từ chối chấp nhận chính phủ ba thành phần, hoặc bốn thành phần, hoặc hai thành phần, tôi nhấn mạnh rằng tôi không thể chấp nhận nó.

Thứ hai, họ nói rằng chỉ có ba quốc gia ở Đông Dương : Campuchia, Lào và Việt Nam. do đó, tôi đã hỏi ngoại trưởng Mỹ Kissinger : Việt Nam nào? đó có phải là Việt nam của chính quyền Sài gòn hay Việt nam của chính quyền Hà nội? nếu ông chấp nhận thỏa thuận này, điều này có nghĩa là ông chấp nhận Việt nam của Hà nội theo cộng sản, đất nước Việt nam này bao gồm cả hai miền nam bắc.

Tôi không thể chấp nhận nó. tôi muốn quay lại hiệp định Geneva, theo đó có hai Việt nam và hai chính quyền - chính quyền Hà nội và chính quyền Sài gòn, tôi gọi nước cộng sản là Việt nam dân chủ cọng hòa và họ phải gọi quốc gia này là Việt Nam Cọng Hòa. Không nước nào được xâm chiếm nước kia. Vĩ tuyến 17 và hiệp định Geneva phải được xử dụng làm nền tảng, chờ ngày thống nhất đất nước thông qua các biện pháp hòa bình và dân chủ. Ngày thống nhất thì chưa rõ, miền bắc và miền nam - tức là, hai quốc gia tách biệt - sẽ đăng ký làm thành viên của Liên hiệp quốc, vĩ tuyến 17 và vùng phi quân sự sẽ được duy trì cho đến ngày thống nhất đất nước.

Điểm thứ ba là đối với quân đội bắc việt, ngoại trưởng Mỹ, Kissinger thừa nhận rằng họ có quyền ở lại miền nam một cách hợp pháp và như là một lẽ tất nhiên.

Như tôi đã nói, đây là điểm quan trọng nhất. Không có gì kỳ lạ hơn sự việc rằng những kẻ xâm lược, sau khi chiến tranh đã được kết thúc và hòa bình đã lập lại, lại có quyền đóng quân vĩnh viễn trên lãnh thổ của nước khác.

Sau đó tôi đã nói rằng điều kiện tiên quyết quan trọng nhất là rút quân đội Bắc Việt về miền bắc. Kissinger trả lời tôi rằng Hoa Kỳ đã đàm phán vấn đề này trong 3 năm với Liên Xô và Trung Cọng, nhưng không có kết quả, đó là lý do tại sao Hoa Kỳ đã từ bỏ vấn đề.

Tôi nói : à! đây là lý do tại sao mà tổng thống Hoa kỳ ngay từ đầu đã nêu lên điều kiện cho bắc việt tuân theo : quân đội bắc việt, là đội quân xâm lược, phải rút trước, trước khi Hoa Kỳ rút quân. Điều này nghe có vẻ hợp lý và logic, nghe có vẻ rất kiên quyết, nhưng sau đó, Hoa kỳ dần dần giảm bớt đòi hỏi của mình, nói rằng Hoa Kỳ và quân đội Bắc Việt sẽ rút quân song phương và cùng một lúc. Điều này nghe cũng có vẻ hợp lý, logic và êm thấm. Tuy nhiên, tại sao tổng thống Nixon lại nói trong một bài phát biểu rằng Hoa Kỳ sẽ đơn phương rút quân ? ông ta không yêu cầu bắc việt rút quân.

Tôi hỏi ông Kissinger phải chăng Hoa Kỳ không còn yêu cầu bắc việt rút quân , ông ấy nói đúng. Đó là tại sao tôi không đồng ý thỏa thuận. Tôi nói : quý vị đồng ý, nhưng tôi không đồng ý. Bắc Việt phải rút quân, đây là một điều không thể tránh khỏi và là điều kiện bình thường phải được đáp ứng khi chiến tranh kết thúc, đặc biệt là khi cuộc chiến ở miền nam này là một cuộc chiến tranh xâm lược được tiến hành bởi cộng sản bắc việt.

Cuối cùng, chúng ta đã phải đạt được một giải pháp thỏa hiệp. Tôi đã nói rằng một giải pháp chỉ được đồng ý, khi mà theo đó vấn đề quân đội bắc việt đã được giải quyết. Giải pháp này là : vấn đề liên quan đến các lực lượng vũ trang của hai bên ở miền nam việt nam và liên quan đến các lực lượng vũ trang của miền Nam và miền Bắc sẽ được giải quyết bởi các chính phủ Việt Nam, bởi chính các thành phần Việt Nam, trên cơ sở giảm dần quân số hiện có và giải ngũ binh lính.

Tôi tin rằng đây không phải là cách giải quyết vấn đề như mong muốn của chúng ta liên quan đến quân đội bắc việt, và không phải là một giải pháp lý tưởng. Nhưng chúng ta không làm được gì tốt hơn, chúng ta không thể đuổi hết chúng ra khỏi miền nam vào thời điểm mà Hoa kỳ đã ngừng chiến đấu và ngừng hỗ trợ chúng ta, đó là lý do tại sao tôi coi giải pháp này là chấp nhận được nếu bắc việt có thiện chí.

Bắc Việt có 300.000 quân ở miền nam và chúng ta có 1 triệu người, bắc việt nên thể hiện thiện chí bằng cách giải ngũ 300.000 quân của họ ở miền nam, và chúng ta sẽ giảm quân số xuống còn 700.000; con số 100.000 quân giải phóng như được báo cáo nên được xuất ngủ. Và phía chúng ta sẽ tiếp tục giảm thêm 100.000 quân. Sau khi quân giải phóng và quân đội bắc việt đã được xuất ngũ, và sau khi chúng ta đã giải ngũ quân đội của riêng mình, thì mọi bên ở miền nam Việt Nam sẽ thực hiện nghĩa vụ quân sự của họ ở miền Nam, và tất cả quân đội bắc việt trở lại miền bắc và thực hiện nghĩa vụ quân sự ở đó, đây sẽ là một giải pháp công bằng.

Liên quan đến đề xuất chính phủ ba thành phần, tôi dứt khoát từ chối nó. Đó là lý do tại sao sau đó nó đã được đổi thành hội đồng hòa giải và hòa hợp dân tộc ba thành phần, chỉ được giao nhiệm vụ tổ chức bầu cử. Thứ ngu ngốc đó không có quyền lực cai trị ở miền nam này. Do đó, theo tôi nhớ, tôi đã nói : chính phủ của chúng ta, hiến pháp của chúng ta, chế độ của chúng ta, lực lượng vũ trang của chúng ta, cảnh sát của chúng ta, hệ thống hành chính của chúng ta và nhân dân của chúng ta vẫn như củ, không có gì thay đổi.

Tôi cũng nói rằng khi cuộc tổng tuyển cử được tổ chức, chúng ta sẽ đấu tranh chống cộng sản trên mặt chính trị, hội đồng hòa giải và hòa hợp dân tộc ba thành phần sẽ là cơ quan tổ chức các cuộc bầu cử được quốc tế giám sát. Sự đấu tranh của tôi đã thành công, riêng về mặt này.

Tôi cũng nhấn mạnh rằng có bốn quốc gia ở Đông Dương, chứ không phải ba, và rằng khu phi quân sự và vĩ tuyến 17 phải được tôn trọng.

Ba tháng trôi qua trước khi yêu cầu của tôi được đáp ứng, có không biết bao nhiêu là đe dọa và áp lực. Liên quan đến áp lực, hãy để tôi nói một cách thẳng thắn, và có các quý ông ở đây làm chứng. Ông Nixon đã nói với tôi như sau: "tất cả các hiệp định, trong phân tích cuối cùng, chỉ là những tờ giấy, chúng sẽ vô giá trị, nếu chúng không được thực hiện và do đó, nếu bắc việt vi phạm hiệp định thì điều quan trọng là những gì mà ông (tức là tổng thống Thiệu) sẽ làm sau khi ký hiệp định, và những phương tiện gì mà chúng tôi (tức Hoa kỳ ) sẽ cung cấp cho ông nếu bắc việt bội ước, hủy bỏ hiệp định và trở lại tấn công chống lại miền nam. Vì vậy, ông không nên lo lắng về việc ký hiệp định này, mà nó, theo quan điểm của tôi, là tốt nhất, không thể có hiệp định nào tốt hơn. Chúng tôi muốn nó tốt hơn, chúng tôi không thể thực hiện thêm bất kỳ động thái nào nữa với Liên Xô và Trung Cọng : và chúng tôi đã từ bỏ. Hơn nữa, tổng thống Thiệu, ngài nên biết rằng cho dù hiệp định có tốt đến đâu đi chăng nữa, hiệp định mà ngài phác thảo thì có lẻ, vấn đề là sẽ không còn để cho ngài tham khảo trong hiệp định đã ký nếu một khi cộng sản không tôn trọng nó và gửi quân đội tấn công ngài trở lại, họ sẽ không sợ hiệp định. Vấn đề thực sự là : người Mỹ sẽ cung cấp cho ngài, Tổng thống Thiệu và nhân dân Việt Nam, để họ có thể chống lại các cuộc tấn công của cộng sản, đây mới là vấn đề thực sự quan trọng. Và tôi mời ngài đến Washington để đặt nền móng mới cho quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ ở thời hậu chiến, và vì các cam kết cung cấp hỗ trợ lẫn nhau trong việc bảo vệ nền tự do và độc lập của miền Nam Việt Nam, cọng sản có dám vi phạm hiệp định hay không".

Tôi nghĩ rằng đó là một thực tế và tôi biết rằng đồng bào của miền nam chúng ta cũng rất thực tế, nếu cộng sản vi phạm hiệp định bằng cách xử dụng viện trợ quân sự mà họ nhận từ Liên Xô và Trung Cọng, và nếu chúng ta cho họ thấy hiệp định được chúng ta bảo vệ tốt đẹp, họ sẽ không sợ điều đó. Nhưng nếu chúng ta nhận được viện trợ quân sự của Hoa kỳ, nếu cuộc chơi Việt Nam hóa và kế hoạch hiện đại hóa lực lượng vũ trang của Việt Nam Cọng Hòa được tiến hành, và nếu người Mỹ nối lại sự trợ giúp của họ cho chúng ta với các phương tiện không quân của họ đề trừng phạt những kẻ gây hấn, điều này sẽ thực tế hơn cho chúng ta.

Sự sống còn của chúng ta phụ thuộc vào bom và đạn cần thiết trên chiến trường, cũng như các cơ sở vật chất kinh tế và sự hậu thuẫn của Hoa kỳ. Cái này thực tế hơn so với việc có một hiệp định được diễn đạt đẹp đẽ, nhưng không có gì để đối phó với kẻ thù. Điều đó nghe rất lôi cuốn và logic, và áp lực quan trọng nhất đối với tôi tại thời điểm đó là nếu chính phủ Việt Nam Cọng Hòa từ chối ký kết hiệp định thì quốc hội Mỹ chắc chắn sẽ và ngay lập tức cắt giảm mọi viện trợ quân sự và kinh tế cho chính phủ Việt Nam Cọng Hòa -- "và ngay cả khi ngài đồng ý ký hiệp định muộn màng hơn, ngài sẽ không thể có được viện trợ của Mỹ. Đó là quyết định không thể đảo ngược của quốc hội Hoa kỳ. Và khi cộng sản lại phát động các cuộc tấn công chống lại ngài, ngài sẽ không có viện trợ quân sự và kinh tế để bảo vệ miền Nam, và chúng tôi sẽ không can thiệp, ngài nghĩ rằng tương lai hay hiện tại là quan trọng hơn?"

Đó là những điều kiện và những cam kết long trọng đã không được thực hiện - thiết nghĩ- là cam kết giữa ông Nixon và ông Nguyễn Văn Thiệu, hay giữa hai cá nhân hoặc giữa hai chính quyền, nó là cam kết giữa một tổng thống Hoa kỳ và một tổng thống Việt Nam Cọng Hòa; giữa đại diện cho đồng minh vĩ đại của chúng ta, nhà lãnh đạo của thế giới tự do, với một trong những đồng minh đã và đang chiến đấu -- Việt Nam Cọng Hòa. Các cam kết đã được làm ra với danh dự của hai quốc gia, đặc biệt là danh dự của một siêu cường, lãnh đạo của thế giới tự do, những cam kết này là gì?

Thứ nhất, khi cộng sản bắc việt trở lại xâm lược và vi phạm hiệp định, Mỹ sẽ phản ứng dữ dội và ngay lập tức ngăn chặn sự xâm lược.

Thứ hai, người Mỹ sẽ chỉ công nhận chính phủ Việt Nam Cọng Hòa với tư cách là chính phủ duy nhất ở miền nam Việt Nam.

Thứ ba, trong trường hợp cộng sản xâm lược trở lại, người Mỹ sẽ nhanh chóng cung cấp quân sự dồi dào và viện trợ kinh tế cho nhân dân miền nam Việt Nam, để giúp họ chiến đấu chống lại cộng sản xâm lược. Người Mỹ sẽ cung cấp cho nhân dân miền Nam Việt Nam với đầy đủ viện trợ kinh tế để giúp họ phát triển đất nước của họ.

Ông Nixon cũng cho biết phó tổng thống Mỹ, Agnew sẽ đến Việt Nam trong vài ngày nữa và sẽ thông báo công khai ba cam kết này tại Sài gòn, nhưng khi ông Agnew đến, ông ấy chỉ nói về hai cam kết và ông ta không đề cập đến điều thứ ba, ông ta bỏ qua một thỏa thuận với chúng ta, đó là can thiệp, phản ứng và trả đũa mạnh mẽ. Tôi trở nên nghi ngờ về các cam kết của Mỹ tại thời điểm đó.

Thưa quý vị, thưa đồng bào, thưa anh chị em:

Có một sự ám muội trong hiệp định ngày 26 tháng 10 năm 1972 , không ai nghĩ rằng "một ngoại trưởng Mỹ như ông Kissinger mà lại không thể nhận ra rằng đó là một hiệp định dẫn đến cái chết cho người Việt nam quốc gia. Tôi tin rằng ông ta đã nhận ra điều này. Tôi không muốn nhấn mạnh rằng ông ấy đã chấp nhận điều này, nhưng vì mọi người đều nhận ra điều này, thì ông ta đã phải nhận ra nó.

Tôi nghĩ rằng có một số lý do để ông ấy chấp nhận thỏa thuận này, "vào thời điểm đó, tôi đã nói với đồng bào rằng các siêu cường có các lợi ích to lớn trên khắp thế giới. từ lợi ích của họ ở một đất nước nhỏ và yếu như của chúng ta, lợi ích đó nhỏ. Họ dám hy sinh chúng ta để đổi lấy lợi ích của họ, nhưng chúng ta không có gì để họ hy sinh. chúng ta không còn gì để bị hy sinh. Chúng ta chỉ có một mãnh đất nhỏ, miền nam Việt Nam này, nơi mà chúng ta có thể hít thở bầu không khí tự do và chế độ dân chủ để sống.

Chúng ta không có gì để có thể bị hy sinh, do đó, quý đồng bào có thể thấy rằng lập trường của tôi lúc đó là 4 không : không cắt một mảnh đất nào và nhường nó cho cọng sản xâm lược; cũng không chấp nhận liên hiệp vì liên hiệp giống như một viên thuốc độc bọc đường; không cho phép cộng sản hành động như họ muốn ở miền nam Việt nam; và không chấp nhận một liên minh do cộng sản nghĩ ra.

Theo quan điểm của tôi, nếu không có lập trường bốn điểm này, miền nam Việt nam có thể không đứng vững mà mai một dần. Bốn điểm này là mức tối thiểu cần thiết. điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? vì những cam kết và với sự tự tin như vậy, tôi đã đến Hoa kỳ vào tháng 3 năm 1973.

Tôi nói với tổng thống Nixon cùng chính phủ và quốc hội Mỹ rằng, tôi không yêu cầu họ viện trợ vô tận trong 28 hoặc 39 năm, vì tiềm năng kinh tế và tài nguyên thiên nhiên của miền Nam Việt Nam rất phong phú. Nếu họ muốn miền nam Việt nam phát triển mạnh mẽ mà không cần viện trợ của họ trong 28 hoặc 39 năm như Đại Hàn và Trung Hoa Dân Quốc hoặc bất kỳ quốc gia nào sau chiến tranh thế giới, thì họ nên cung cấp cho chúng ta nhiều viện trợ trong 3 hoặc 5 năm để chúng ta có thể phát triển nền kinh tế, sau đó giảm dần viện trợ về con số 0 vào năm 1980.

Tôi đã trích dẫn một ví dụ, giả sử tôi là một người bệnh vừa mới phục hồi sức khỏe, nếu họ cho tôi một viên thuốc mỗi ngày, điều này sẽ chỉ làm giảm bớt bệnh tật của tôi. Tôi sẽ không thể làm việc, đứng lên và đi bộ hoặc chạy, và kiếm tiền. Nếu ai đó đánh tôi, tôi sẽ ngã. Tuy nhiên, sau khi khỏi bệnh, nếu được cung cấp y tế dồi dào - bảy hoặc tám loại thuốc - và nếu trải qua rèn luyện thể chất, tôi sẽ trở nên mạnh mẽ như một vận động viên trong thời gian 3 hoặc 4 năm sau, và sau đó có thể làm việc và kiếm sống, khi nào tôi đã đạt được sự tự cung tự cấp, tôi sẽ không cần sự chăm sóc của họ nữa. Nếu bệnh nhân không được chữa lành hoàn toàn, anh ta sẽ không thể sản xuất bất cứ thứ gì. Nếu anh ấy được cung cấp thuốc trong 3 năm, anh ấy sẽ trở nên mạnh mẽ như một vận động viên, tại thời điểm đó, sự trợ giúp có thể được dừng lại.

Tuy nhiên, tôi lấy làm tiếc rằng sau đó đã xảy ra vụ Watergate ở Mỹ. Tình hình chính trị của Hoa kỳ đã ngăn cản viện trợ kinh tế dồi dào, ngăn cản việc tiếp tục chương trình Việt Nam hóa và chương trình hiện đại hóa lực lượng vũ trang của Việt Nam Cọng Hòa. Thêm vào đó, những thay đổi kinh tế tầm quốc tế liên quan đến năng lượng và lương thực đã tạo ra những khó khăn và mâu thuẫn trong người dân Mỹ.

Cộng sản không ngu đến mức không nhận ra tất cả những điều này. Họ rất xảo quyệt và đã khai thác triệt để những sự kiện này.

Viện trợ quân sự và kinh tế của Hoa kỳ đã giảm, chương trình Việt Nam hóa không được thực hiện đúng, và chương trình hiện đại hóa lực lượng vũ trang của Việt Nam Cọng Hòa chưa được thực hiện. Trong khi đó, 300.000 quân Bắc Việt vẫn còn ở đây, đoàn quân đồng minh đã ra đi. Trước khi ngừng bắn, cộng sản đã cất giữ ở miền nam nhiều gấp năm lần số vũ khí mà chúng ta có, kể từ đó, họ đã sửa chữa sân bay, xây dựng đường sá, đặt đường ống dẫn dầu, và tiếp tục nhận được xe tăng và pháo từ Liên Xô và Trung Cọng. Trong khi đó người Mỹ đã giả vờ không chú ý đến bất kỳ hoạt động nào trong số này, và vẫn án binh bất động. Cộng sản đã thành công trong việc xây dựng quân đội của họ ở miền nam lên tới 570.000 người, thành lập thêm các sư đoàn và quân đoàn, thu hút thêm xe tăng, pháo, tên lửa và súng phòng không, xây dựng nhiều đường sá và sân bay. Họ đã bổ sung thêm nhiều loại vũ khí và trang thiết bị hiện đại cho các chiến trường ở miền nam. Trong khi đó, tất cả các loại viện trợ của Mỹ cho miền nam đã giảm và quyết tâm của Mỹ đương đầu với cộng sản cũng giảm như vậy.”

Chúng ta hiện đang ở một vị thế rất khó khăn. Chúng ta mong muốn thể hiện rằng chúng ta tôn trọng hiệp định Paris để làm hài lòng dư luận thế giới và dư luận Hoa kỳ, chúng ta muốn chứng minh rằng chúng ta yêu hòa bình và tôn trọng hiệp định Paris. Do đó, chúng ta đã tiếp tục mời phía cộng sản đàm phán, thúc đẩy đề xuất này đến đề xuất khác và chúng ta đã áp dụng một thái độ phòng thủ chứ không phải là tấn công. Ngay cả khi chúng ta muốn phát động tấn công, chúng ta thiếu phương tiện để phát động thọc mạnh và thọc sâu vào hậu phương địch, chúng ta không thể đánh bom bắc việt vì chúng ta thiếu phương tiện để làm việc đó. Nếu chúng ta làm điều đó, thì người Mỹ sẽ cắt giảm viện trợ nhanh hơn. Vì vậy, cộng sản đã chiếm thế thượng phong,

Vào tháng 3 năm 1973, khi tôi ở Hoa Kỳ, sự cố Tống Lê Chân đã xảy ra. cộng sản tấn công căn cứ này không phải vì họ muốn nắm giữ một trong những vị trí tiền phương của chúng ta, họ đã làm điều đó để kiểm tra quyết tâm của Mỹ, để xem liệu người Mỹ có dám phản ứng hay không, mặc dù Mỹ nói rằng sẽ phản ứng. Người Mỹ đã không dám phản ứng, do đó, cộng sản đã phát triển táo bạo hơn với các hành động hung hăng của họ.

Sau sự cố Tống Lê Chân, nhiều căn cứ xa xôi khác lần lượt rơi vào tay cộng sản. Vì ở các vị trí của những căn cứ này, chúng ta không thể cung cấp cho họ vật tư, quân tiếp viện, hỗ trợ trên không và sơ tán những người bị thương, cộng sản dần dần tấn công và chiếm giữ. Chúng ta không có đủ tiện nghi, thiếu máy bay trực thăng và các loại máy bay khác để hỗ trợ cho các căn cứ này. Và chúng ta không thể rút khỏi những căn cứ đó.

Về mặt quân sự thuần túy, rất ngu ngốc khi thành lập "một tiền đồn ở vùng sâu vùng xa mà không có phương tiện cần thiết để tiến hành các hoạt động tiếp tế và sơ tán y tế. Tuy nhiên, về mặt quân sự, khi chúng ta từ bỏ những tiền đồn như vậy, mọi người tuyên bố rằng những căn cứ đó đã bị bỏ rơi vì quân đội chạy trốn, không phải vì chúng đang bị cộng sản tấn công, và rằng các lực lượng Việt Nam Cọng Hòa thiếu quyết tâm chiến đấu. Nếu chúng ta quyết định chiến đấu và bảo vệ những tiền đồn này, chúng ta sẽ không có phương tiện để làm như vậy. Do đó, sự sụp đổ của một số tiền đồn đã kích hoạt sự sụp đổ của vô số tiền đồn khác và kéo theo sự thiệt hại của nhiều đơn vị thiện chiến. Sự mất mát những căn cứ nhỏ đã dẫn đến mất những căn cứ lớn hơn và sự sụp đổ của những quận lỵ.

Điều này đại diện cho một bài kiểm tra về quyết tâm và phản ứng của Hoa kỳ, nhưng Hoa Kỳ vẫn im lặng. Hoa Kỳ cũng vẫn im lặng sau khi thủ phủ của các tỉnh thất thủ. Hoa Kỳ không dám phản ứng. Một thái độ như vậy chắc chắn đã khuyến khích những kẻ xâm lược, những kẻ ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn, trong khi chúng ta, những người chiến đấu để tự vệ, đã bị làm suy yếu nghiêm trọng bởi bạn bè của chúng ta. Những người anh lớn của kẻ xâm lược đã giúp họ trở thành ngày càng mạnh hơn, mặc dù vậy, Hoa Kỳ đã không thực hiện bất kỳ động thái nào đối với Liên xô và Trung Cọng, cũng như Hoa Kỳ không dám động đến sợi lông chân của cộng sản bắc việt và cộng sản ở miền nam.

Ngay cả khi Phước Long thất thủ, Hoa Kỳ cũng không phản ứng gì.

Vậy, chuyện gì đã xảy ra? kể từ năm 1973, viện trợ quân sự của Mỹ đã giảm. chương trình Việt Nam hóa đã không được thực hiện và chương trình hiện đại hóa lực lượng vũ trang Việt Nam Cọng Hòa đã bị bỏ rơi sau khi ký kết hiệp định Paris.

Không thể có phép thuật trong chiến đấu. Trong chiến đấu, phải có một sự "cân bằng trong cán cân lực lượng". Chiến đấu cần có bom, đạn và các phương tiện khác.

Ngoài ý chí chiến đấu và lòng dũng cảm, chúng ta phải thực tế, chúng ta không thể chỉ cắn người khác để thể hiện lòng dũng cảm. Chúng ta đang chiến đấu với những người cộng sản sở hữu những phương tiện có sẵn dành cho họ bởi Liên Xô và Trung Cọng. Chúng ta không chiến đấu với một kẻ thù chỉ sở hữu vũ khí thô sơ và dao rựa, như họ đã làm trong quá khứ. Người cộng sản bây giờ sở hữu phong phú hơn, những phương tiện hiện đại hơn, mạnh mẽ hơn và có quân số nhiều hơn.

Do đó, đã đến lúc cộng sản buộc chúng ta phải xử dụng các đơn vị tổng trừ bị của chúng ta để bảo vệ lãnh thổ. Chúng ta từng hoàn toàn nhận thức được rằng cộng sản đang giăng bẫy. Tuy nhiên, bởi vì chúng ta có lãnh thổ, có người dân, có thông tin liên lạc, có những cây cầu, có nền kinh tế, có cánh đồng lúa và những dòng sông, chúng ta phải bảo vệ những điều này bằng cách dàn trải các lực lượng vũ trang của chúng ta. Và chúng ta đã bảo vệ hiệu quả lãnh thổ của chúng ta trong 2 năm, cho đến gần đây.

Trong khi đó, cộng sản đã liên tục đưa vào miền nam nhiều quân hơn, nhiều xe tăng hơn, nhiều pháo hạng nặng hơn, nhiều súng phòng không hơn và nhiều tên lửa hơn. Trong một số lĩnh vực nhất định, các lực lượng cộng sản lớn gấp rưỡi, gấp đôi thậm chí gấp ba so với lực lượng của chúng ta. Tại một số tỉnh lỵ, thị xã hoặc các căn cứ quân sự, nếu chúng ta có một sư đoàn, cộng sản khai triển hai sư đoàn đối đầu với chúng ta; nếu chúng ta có một trung đoàn, họ sẽ khai triển một sư đoàn; nếu chúng ta có một tiểu đoàn, họ khai triển một trung đoàn, nếu chúng ta có 15 xe tăng, họ khai triển 22 xe tăng; nếu chúng ta có 14 khẩu súng hạng nặng, họ khai triển 23 súng hạng nặng. điều này có nghĩa là lực lượng của họ đã lớn gấp đôi so với chúng ta. Kết quả là cán cân lực lượng bị nghiêng về phía cộng sản. Do đó, một số căn cứ và thủ phủ các tỉnh của chúng ta chắc chắn bị áp đảo.

Đã đến lúc chúng ta phải đặt câu hỏi : liệu Hoa Kỳ có cung cấp viện trợ cho chúng ta và rốt cuộc có sẽ can thiệp hay không ? chúng ta có nên ngồi đợi Hoa Kỳ cung cấp viện trợ cho chúng ta, và như thế chúng ta có thể chiến đấu và khởi động các cuộc phản công hay không ? nếu Hoa Kỳ không can thiệp, một lúc nào đó chúng ta sẽ mất tất cả. Nếu các tỉnh lỵ, quận lỵ và các đơn vị của Việt Nam Cọng Hòa bị mất, người đứng đầu miền nam Việt Nam -- thủ đô và khu vực thịnh vượng này -- sẽ bị mất.

Đã đến lúc chúng ta quyết định, chúng ta nhận ra rằng người Mỹ đã chấp nhận một thái độ thất bại trước những hành động xâm lược của cộng sản, chúng ta phải tự quyết định công việc của mình. Do đó, sau khi Ban Mê Thuột -~ quan trọng nhất, thịnh vượng nhất và là khu vực đông dân cư nhất của cao nguyên trung phần - bị cộng sản tấn công, chúng ta tự hỏi liệu lực lượng của chúng ta có đủ sức bảo vệ Kontum và Pleiku hay không. Các lực lượng của chúng ta không thể bảo vệ Kontum và Pleiku, điều mà lúc đó chúng tôi tin rằng, sớm muộn gì cũng sụp đổ. Sau khi Ban Mê Thuột bị thất thủ, chúng tôi tự hỏi lấy quân ở đâu để chiếm lại.

Chúng tôi đã đi đến một quyết định chính trị, việc bảo vệ cho Kontum và Pleiku sống còn thì không thể được bảo đảm.

Trên nền tảng quan điểm của thủ tướng, tướng Tổng tham mưu trưởng liên quân và các tư lệnh của các quân khu liên quan, chúng tôi quyết định khai triển quân vượt mọi khó khăn từ Kontum và Pleiku, đến chiếm lại Ban Mê Thuột. Nếu Ban Mê Thuột được chiếm lại, chúng tôi tin rằng, chúng ta sẽ có cơ hội chiếm lại Kontum và Pleiku : đây là một quyết định chiến thuật và, trong phân tích cuối cùng, là một quyết định chính trị. Đó là một quyết định quân sự, chiến thuật, theo như các tướng lãnh đã lo lắng. Thật không may, bất kỳ sự tái triển khai nào của binh lính hoặc bất kỳ cuộc rút lui nào đều không phải là một nhiệm vụ dễ dàng, nó là một nhiệm vụ khó khăn nhất cho quân đội. Hơn nữa, các lực lượng cộng sản ở Ban Mê Thuột và những lực lượng cộng sản dùng để chặn đường chuyển quân của chúng ta từ Kontum và Pleiku đến Phú Bổn thì nhiều hơn chúng ta. Chúng ta chỉ có một trung đoàn di chuyển từ Kontum và Pleiku về Phú Bổn, nên thật là vô cùng khó khăn cho chúng ta để bảo tồn một phần lực lượng của chúng ta di chuyển từ Kontum, Pleiku đến Tuy Hòa và Ninh Hòa.

Chúng ta không đủ lực lượng tập trung lên các đỉnh đồi để ngăn chặn cộng sản tiến về từ Ban Mê Thuột ,.,sau đó mọi hy vọng tái chiếm Ban Mê Thuột tan biến, vì quân đội chúng ta đâu đâu cũng phải đối đầu với kẻ thù theo tỷ lệ một chọi ba, tức là lực lượng cộng sản đông gấp ba lần chúng ta. Phải đối mặt với tình hình này, chúng ta phải miễn cưỡng xử dụng các đơn vị dù của chúng ta, vốn cũng bị áp đảo bởi cả một sư đoàn cộng sản.

Quý vị thấy đấy, thưa quý vị và thưa đồng bào, ngay cả với lính dù dày dạn kinh nghiệm cũng đã bị áp đảo, sau đó họ đã chiến đấu quên mình và gây tổn thất nặng nề cho hai hoặc ba trung đoàn kẻ thù.

Với xu hướng đó, Nha Trang, Phan Rang, Cam Ranh đã bị đe dọa, bởi vì những nơi này chỉ được bảo vệ bởi lực lượng khu vực và địa phương quân. Điều này cũng đúng với Phú Yên. Trong vài năm qua, chúng ta duy trì 1 sư đoàn ở Qui Nhơn và Bình Định, tuy nhiên, trong năm này, cộng sản đã gia tăng sức mạnh quân đội của họ ở đó và đã nhận được nhiều vũ khí hơn. Do đó, mặc dù thực tế là sư đoàn 22 của chúng ta đã chiến đấu dũng cảm, họ đã gánh chịu thiệt hại và cuối cùng phải rút lui.

Ở Huế và Đà Nẵng, vấn đề rắc rối còn liên quan đến thế cân bằng lực lượng giữa chúng ta và kẻ thù. Tôi sẵn sàng thừa nhận rằng một vài yếu tố khác có liên quan đến việc mất Huế và Đà nẵng ; cụ thể là một số chỉ huy đã chấp nhận thái độ thất bại ; một số xáo trộn là do đồng bào di tản, tôi đang nói một cách thẳng thắn. tôi không cố gắng đổ lỗi cho quân đội hoặc cho đồng bào. Tôi muốn nói rằng một số diễn biến trên chiến trường có thể thấy trước và một số khác thì không. Đối mặt với áp lực của kẻ thù và các cuộc tấn công pháo binh của chúng ở đà nẵng, chúng ta không thể bảo đảm tránh được rủi ro trước một sự trải mỏng lực lượng để bảo vệ các vị trí của chúng ta.

Đúng là chúng tôi ở cấp trung ương đã sống chết cống hiến để bảo vệ trật tự : tuy nhiên, với các chỉ huy ở chiến trường, những người gắn bó mật thiết với quân đội và dân chúng, dù với mọi quyết tâm, họ không thể hoàn thành nhiệm vụ của họ, họ không có cách nào để hoàn thành nhiệm vụ trừ khi chúng tôi có thể gửi cho họ thêm quân đội mà chúng tôi không có ; trừ khi chúng tôi có thể cung cấp cho họ có thêm máy bay và bom, thứ mà chúng tôi không có; và trừ khi chúng tôi cung cấp cho họ thêm xe tăng và súng hạng nặng, mà chúng tôi cũng không có.

Người ta nhớ lại rằng quân đội Hoa Kỳ thường xuyên được cung cấp sự hỗ trợ từ máy bay B-52 nhiều hơn quân đội của chúng ta, đó là lý do tại sao quân đội Mỹ dễ dàng giành thắng lợi và thành công trong việc buộc kẻ thù phải cúi đầu.

Sau năm 1973, quân đội của chúng ta đã đánh nhiều trận giành thắng lợi và được khâm phục bởi một vị tướng Mỹ, người mà sau này đã trở lại nam Việt nam, đặc biệt là từ khi tôi ra lệnh cho quân đội của chúng ta đánh địch theo cách tiết kiệm của người Việt nam. Vị tướng Hoa kỳ này nói rằng ngay cả Thủy quân lục chiến Mỹ được hỗ trợ bởi B-52 cũng khó có thể chiến đấu thắng lợi như vậy. Tuy nhiên, họ nói, các sư đoàn chân đất của Việt nam mà cũng có thể chiến đấu thắng lợi. Họ đã phải bày tỏ sự ngưỡng mộ của họ đối với quân đội Việt Nam Cọng Hòa.

Tuy nhiên, trong khoảng thời gian đó, khi chúng tôi yêu cầu 1,4 tỷ đô la viện trợ Mỹ, Hoa kỳ giảm yêu cầu này xuống còn 700 triệu đô la, và sau đó là 300 triệu đô la nhưng đã bị treo khoảng 1 năm nay. Trong thời gian đó, các lực lượng vũ trang Việt Nam Cọng Hòa đã mất khoảng 50 phần trăm tiềm năng chiến đấu của họ: nó giống như một võ sĩ quyền Anh đã mất khoảng 62 phần trăm sức lực.

Về mặt quân sự, khi một đội quân mạnh, nó sẽ vẫn mạnh, và nếu nó bị yếu, thì nó sẽ yếu hơn. Giống như một bệnh nhân : nếu một bệnh nhân vẫn đủ khỏe, anh ta sẽ hồi phục, và nếu anh ta bị bệnh, thì anh ta sẽ yếu hơn. Khi Hoa Kỳ giảm viện trợ cho chúng ta và do đó chúng ta đã mất khoảng 60 phần trăm tiềm năng giao tranh. Quý vị có thể tưởng tượng điều gì đã xảy ra. Thương vong của chúng ta đã gia tăng một cách đa dạng, bởi vì chúng ta không có đủ sự hổ trợ của không quân. Hơn nữa, pháo binh của chúng ta đã kém hơn của kẻ thù, thương vong do pháo binh của kẻ thù gây ra cho chúng ta đã tăng vọt, tỷ lệ tử vong trong số những người bị thương đã tăng lên vì chúng ta không có đủ máy bay trực thăng để di tản thương binh. Tệ hơn nữa, tại các bệnh viện, băng gạt đã được xử dụng và tái xử dụng hai hoặc ba lần, điều này là vô nhân đạo đối với một chiến binh bị thương : băng bó rồi giặt rửa và xử dụng nó một lần nữa là vô nhân đạo.

Vì thiếu đạn dược, chúng ta đã phải đếm từng mỗi vỏ đạn. chúng ta đã mất một số lượng xe tăng và một số khẩu pháo binh. Hoa kỳ đã tiến hành thỏa thuận Paris trên cơ sở thực hiện một đổi một, thay thế vỏ đạn để lấy đạn, nhưng họ không thực hiện những thay thế này: họ đã ngừng cung cấp cho chúng ta theo phương pháp này. Như một lẽ tất nhiên, vật chất chiến tranh của chúng ta đã giảm dần: đó là lý do tại sao chúng ta đã thua. Ngược lại, ngay từ đầu cộng sản đã có một lượng vật chất chiến tranh vốn tăng lên đều đặn, do đó, họ đã đạt được một lợi thế kép - đó là, họ đã nhận được nhiều vật liệu chiến tranh hơn, trong khi khối lượng vật chất chiến tranh của chúng ta bị cắt giảm.

Do đó, bất kể các chiến binh của chúng ta có thể dũng cảm đến đâu, và bất kể các chỉ huy của chúng ta có tài giỏi đến đâu, chúng ta cũng phải chịu thua, mất đất nước và mất người dân, chúng tôi đã nhận ra sự thật này và chúng tôi không thể cam chịu. Nhiều lần, chúng tôi đã thấy rằng chúng tôi phải dùng đến một chiến thuật phi logic để bảo vệ đất đai của chúng ta và để bảo vệ người dân của chúng ta, chúng ta đã phải chiến đấu với một cuộc chiến phi logic bởi vì đây là trách nhiệm của chúng ta. Cộng sản thì vô trách nhiệm.

Giả sử rằng tôi là chủ sở hữu của một đồn điền rộng 9 hoặc 10 ha, để ngăn trái cây và gia cầm của tôi khỏi bị đánh cắp, tôi cần 30 hoặc 40 người trông nom. Nếu một tên trộm đột nhập vào đồn điền của tôi mỗi đêm, rồi đốn ngã một cây và ăn trộm 10 trái cây, thế là đủ để phá hủy đồn điền của tôi, nhưng, trong trường hợp này, những tên cướp thì có số người nhiều hơn so với những người giữ đồn điền, và được trang bị vũ khí hiện đại hơn, tuy nhiên, người Mỹ đã yêu cầu chúng ta làm một điều không thể.

Do đó, tôi đã nói với họ: các ông yêu cầu chúng tôi làm một cái gì đó mà các ông đã không làm được với nửa triệu quân đội mạnh mẽ và những chỉ huy lành nghề, cùng với gần 300 tỷ đô la chi tiêu trong 6 năm ròng. Nếu tôi không nói rằng các ông đã bị cộng sản đánh bại ở việt nam, thì tôi phải khiêm tốn nói rằng các ông cũng không thắng. nhưng các ông đã tìm thấy một lối thoát danh dự. Và hiện nay, khi quân đội chúng tôi thiếu vũ khí, đạn dược, trực thăng, máy bay và B-52, các ông lại yêu cầu chúng tôi làm một việc không thể, như kiểu lấy đá lấp đầy đại dương. Đây giống như một tình huống mà các ông chỉ trao cho tôi 3 đô la và giục tôi đi bằng máy bay, vé hạng nhất, thuê một phòng trong khách sạn với giá 30 đô la mỗi ngày: ăn bốn hoặc năm lát thịt bò bít tết và uống bảy hoặc tám ly rượu vang mỗi ngày. Đây là một điều không thể, vô lý.

Ngoài ra, các ông đã để cho các chiến sĩ của chúng tôi chết dưới những trận mưa pháo, đây là một hành động vô nhân đạo của một đồng minh vô nhân đạo. Từ chối hỗ trợ một đồng minh và bỏ rơi họ là một hành động vô nhân đạo. Đây là lý do tại sao, vào ngày phái đoàn quốc hội Mỹ đến đây, tôi đã nói với các nghị sĩ rằng, đó là không phải vấn đề viện trợ 300 triệu đô la, mà là vấn đề tuân thủ các cam kết của Mỹ hỗ trợ cho người dân Việt nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập, tự do và lý tưởng tự do mà người Mỹ đã chiến đấu cùng với nhân dân của chúng tôi ở đây, và vì điều đó mà 50.000 công dân Hoa kỳ đã hy sinh.

"Hoa Kỳ tự hào là một người bảo vệ chính nghĩa và lý tưởng tự do bất khả chiến bại trong thế giới này, và sẽ kỷ niệm 200 năm thành lập vào năm tới. Tôi đã hỏi họ: những tuyên bố của Hoa kỳ có đáng tin cậy hay không? những cam kết của Mỹ có còn hiệu lực hay không ? khoảng 300 triệu đô la không phải là một số tiền lớn đối với các ông so với số tiền mà các ông đã tiêu ở đây trong 10 năm, số tiền này chỉ đủ cho 10 ngày chiến đấu, và với số tiền đó", các ông yêu cầu tôi ghi một chiến thắng hoặc ngăn chặn sự xâm lược của cộng sản - một nhiệm vụ mà các ông đã không hoàn thành trong 6 năm với tất cả lực lượng của Mỹ cùng với một số tiền như vậy. Điều này là vô lý!

Thưa quý vị, thưa đồng bào và thưa anh chị em:

Tất cả những điều này đã dẫn đến tình hình hiện nay ở đất nước chúng ta. Tôi chấp nhận sự chỉ trích của người dân trên thế giới và đồng minh của chúng ta, cũng như những lời chỉ trích đúng đắn của người dân Việt Nam. Phải thừa nhận rằng một số, nhưng không phải tất cả, các nhà lãnh đạo quân sự của chúng ta đã hèn nhát và nhiễm đầy tinh thần chủ bại, và sự thiếu bản lĩnh của các chiến sĩ trong các trận đánh vừa qua. Ở một số khu vực, các chiến sĩ của chúng ta đã chiến đấu anh dũng và tôi không nghĩ rằng quân đội đồng minh đã có thể chiến đấu anh dũng như những người lính của chúng ta đã chiến đấu.

Chúng ta phải công bằng, do đó, điều đó nói lên rằng những người làm sai phải bị xử phạt tương xứng. Chúng ta không cố gắng che giấu khuyết điểm của những người làm sai đó, chúng ta tự hào nói rằng chúng ta đã ghi được thành tích trong một số trận chiến gần đây, mà quân đội đồng minh Hoa kỳ của chúng ta hầu như chắc chắn không làm được.

Chúng ta hãy trở lại nói về tình hình chung hiện nay như thế nào.

Sư đoàn 2 và khá nhiều hỏa tiễn, súng phòng không, các khẩu pháo và những chiếc xe tăng. chúng tôi rất tiếc tình hình đã thay đổi quá nhanh chóng tại miền trung Việt nam. tuy nhiên, với tư cách là một tổng thống và là một người có một số kiến thức quân sự, tôi có can đảm để nói rằng bất kể tốc độ phát triển của tình hình trong thời gian qua, tình hình hiện tại ở đó cũng sẽ như vậy. Tôi có thể nói điều này với quý vị, thưa quý vị, quý vị sẽ có cơ hội kiểm tra chéo với quân đội : tôi tin rằng ngay cả khi chúng tôi không rút quân khỏi Kontum, Pleiku với mục đích rõ ràng là xử dụng họ để chiếm lại Ban Mê Thuột, thì Kontum, Pleiku cũng không còn ở dưới sự kiểm soát của chúng ta.

Chúng ta sẽ còn phần lớn mọi thứ, quân đội, xe tăng, pháo binh và người dân trong những khu vực này, vì chúng ta rút đi, chúng ta đã cứu vớt thành công một nửa, và thậm chí hơn một nửa trong số đó. Xét tình hình lúc đó, Quãng Tín sẽ sớm bị mất; Trung tướng Trường cũng thừa nhận rằng "bên cạnh sự sụp đổ của Quãng Tín sẽ là Quãng Ngãi thất thủ, Bình Định, Qui Nhơn rồi sẽ bị cô lập và có thể trụ thêm vài tuần nữa. Phần nhiều, Huế sẽ bị bao vây bởi bốn hoặc năm sư đoàn cộng sản, người dân trong thành phố đó sẽ bị pháo kích".

Vì chúng ta chỉ có sư đoàn 1 ở Huế, sư đoàn thủy quân lục chiến được khai triển giữa Huế và Đà nẵng, và sư đoàn 3 ở Đà nẵng, chúng ta đã phải rút quân khỏi những khu vực đó, mặc dù cũng khá nhanh, ngay cả khi chúng tôi không làm những gì như chúng tôi đã làm, thì kết quả cũng sẽ giống như bây giờ, đúng như thế.

Ở Phú Yên và Tuy Hòa, chúng ta chỉ có lực lượng khu vực và địa phương quân, không thể bảo vệ các tỉnh này. Kể từ khi chúng ta chỉ có 2 hoặc 3 sư đoàn phòng thủ Nha Trang, chúng ta cũng đã mất thành phố đó. Chúng ta không thể nói rằng người lính của chúng ta đã không chiến đấu ở Phan Rang và Phan Thiết. Không chỉ có dân chúng chạy trốn trước mũi tiến công của kẻ thù: có những người dân đã chiến đấu rất dũng cảm. Tôi đã gửi nhiều tướng lĩnh đến khu vực này, bên cạnh đó, tướng tư lệnh quân khu, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi cũng có mặt. Tướng Nghi tình nguyện làm việc dưới sự chỉ huy của Tư lệnh quân khu khác, tướng Toàn, để bảo vệ sân bay Phan Rang, ông ấy không bận tâm về cấp bậc quân đội của mình hay sợ nguy hiểm. Tuy nhiên, quân đội của chúng ta đã ở thế yếu và thiết bị quân sự đã bị thiếu thốn. Cuối cùng, Phan Rang đã rơi vào tay kẻ thù sau một số trận đánh bảo vệ và Phan thiết cũng vậy.

Vì vậy, trong điều kiện hiện nay, chúng ta phải cố gắng khai triển lại quân đội của chúng ta để bảo vệ Vùng 3 và Vùng 4. Bây giờ chúng ta đang ở vào một vị thế mà chúng ta phải dựa vào lòng dũng cảm và quyết tâm của các chiến sĩ, sự ủng hộ của đồng bào, và sự hy sinh cao cả nhất của các chiến sĩ, chúng ta không thể nói rằng chúng ta có thể bảo vệ những khu vực này bằng sự phụ thuộc vào sức mạnh và vũ khí của quân đội chúng ta".

Trong những ngày tới cuộc chiến sẽ rất nguy hiểm, sẽ hết sức ác liệt, thử thách rất lớn đối với lực lượng vũ trang và nhân dân chúng ta.

Thưa quý vị : hôm nay, trước hội đồng lưỡng viện của Quốc hội, trước tòa án tối cao, trước chính phủ, trước đồng bào và trước các anh chị em chiến sĩ và toàn thể quốc dân đồng bào, tôi xin tuyên bố từ chức tổng thống, và, đúng với hiến pháp, phó tổng thống Trần văn Hương sẽ đảm nhận vị trí tổng thống.

Điều 55 của hiến pháp quy định rằng khi nhậm chức, tổng thống sẽ tuyên thệ nhậm chức trước nhân dân cả nước, trước sự chứng kiến của tòa án tối cao và Quốc hội. Tuy nhiên, do hoàn cảnh và vì sự khẩn cấp của nó, việc từ chức của tôi hôm nay không mang tính chất lễ nghi cung cách đối với đồng bào cả nước, cũng như toàn thể các anh em chiến sĩ và cán bộ, thời gian không cho phép tôi thông báo việc này với nghi thức trang trọng hơn, trước một cử tọa long trọng hơn.

Bốn năm trước, tôi nhận sứ mệnh mà nhân dân cả nước giao phó, khi tôi rời đi, lẽ ra tôi cần phải nài xin quan điểm của mọi người, theo cách này hay cách khác. Mặc dù hiến pháp không cung cấp một cuộc trưng cầu dân ý hoặc bất kỳ cách nào để người dân trên toàn quốc có thể bày tỏ sự không tin tưởng của họ đối với tổng thống đương nhiệm. Tuy nhiên, tôi không yêu cầu điều đó vì hoàn cảnh, bởi vì điều đó sẽ tốn kém và bởi vì, tôi tin rằng, một khi tôi nhận được quyết định thôi việc, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với quyết định này trước nhân dân cả nước và vì lý do, tôi tự xúc tiến việc từ chức này.

Theo điều 55 của hiến pháp, việc tuyên thệ nhậm chức của 'tổng thống được chỉ định Trần văn Hương' lẽ ra phải được tổ chức tại một nơi long trọng. Tuy nhiên, như tôi đã nói, tình hình không cho phép chúng tôi làm như vậy. Một lý do khác là việc gián đoạn chức năng của người đứng đầu nhà nước phải được ngăn chặn để tránh bất ổn chính trị, ngăn chặn khoảng trống chính trị, và ngăn chặn kẻ thù khai thác tình hình. Do đó, tôi có một yêu cầu khẩn cấp. Tôi khẩn cấp tha thiết yêu cầu quốc hội lưỡng viện và tòa án tối cao đồng tình với quan điểm của tôi, đề nghị phó tổng thống Trần văn Hương được phép tuyên thệ nhậm chức ở đây sau sự từ chức của tôi, để tránh chính trị bất ổn và tránh khoảng trống chính trị có thể gây bất lợi cho an ninh quốc gia.

Như quý vị biết, tôi không phải là người thiếu can đảm, tôi có thể tự hào khẳng định rằng tôi có đủ can đảm về thể lực, bởi vì tôi từng là một chiến sĩ đã 22 năm nay, nếu tôi bất hạnh phải chết, lẽ ra tôi đã chết khi còn là thiếu úy. Tại thời điểm đó, với sự ban phước phù hộ của Thượng đế, tôi đã sống sót. Tôi đã sống cho đến ngày nay, trải qua vô số thử thách trong chiến đấu. Trong cuộc đời binh nghiệp của tôi, tôi có ít thời gian ở trong văn phòng. Tôi đã dành phần lớn thời gian trong chiến đấu. Ngay cả khi tôi là tổng thống, không ai bắt buộc tôi đi Bình Long, Kontum, Quảng Trị, Bình Định, Huế trong những ngày nghỉ Tết Mậu Thân. Có lúc đạn pháo của địch rơi sát tôi, và có lần một chiếc trực thăng bay cạnh trực thăng tôi đang đi bị bắn hạ. Bất chấp mọi điều này, tôi tin rằng sự hiện diện của tôi giữa các chiến sĩ sẽ giúp họ chiến đấu một cách vẻ vang, và họ đã chiến thắng.

Liên quan đến lòng dũng cảm chính trị và đạo đức của tôi, hãy để tôi nhắc lại - không chỉ đơn thuần là kể lể công lao mà tôi đã cống hiến cho đồng bào và các anh chị em - vào ngày 2 tháng 11 năm 1968, Hoa Kỳ mạnh mẽ gây áp lực buộc tôi phải đứng đầu một phái đoàn sang Paris dự hội nghị bốn bên, với vị thế tương tự như Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam. Tôi không chịu đi, và quý vị có thể nhớ lại bài diễn văn mà tôi đọc trước quốc hội lưỡng viện vào ngày 2 tháng 11 năm 1968, thật hợp lý khi nói rằng cuộc sống của tôi bị đe dọa, bởi vì những người muốn giết tôi có thừa phương tiện để làm như vậy, và những người muốn lật đổ chế độ của tôi cũng có đủ phương tiện và kinh nghiệm để làm như vậy. Nhưng tôi đã không sợ.

Vào năm 1971, khi cuộc bầu cử tổng thống được mô tả là độc diễn, tôi đã bị áp lực phải từ bỏ chiến dịch vận động độc diễn sau khi hai ứng cử viên khác đã rút lui, bất chấp áp lực này, tôi tin rằng nếu tôi rút lui, thì một khoảng trống chính trị chắc chắn sẽ xảy ra, tôi vẫn nhớ tôi đã nói với đồng bào lúc đó rằng tôi không tham lam quyền lực và địa vị. Tuy nhiên, tôi cũng nói với đồng bào rằng khoảng trống chính trị này sẽ dẫn đất nước đi đến một cuộc phiêu lưu chính trị khôn lường, và nó, khoảng trống chính trị này là một bối cảnh mà người ta đang cố gắng tạo ra nhằm áp đặt một giải pháp chính trị bất lợi, được gọi là một giải pháp hòa bình trên đường chạy trốn vào năm 1971-1972. Vì thế, tôi kiên quyết ứng cử một mình để duy trì hiến pháp và vị trí hợp pháp của tổng thống ở miền nam, và để bảo vệ thành công vị thế của chúng ta, nếu các cuộc đàm phán được tổ chức.

Với quyết tâm và lòng dũng cảm của mình, tôi đã bất chấp vô số áp lực và các mối đe dọa. Vào thời điểm đó, mặc dù tôi đã có giải pháp riêng của mình, nhưng họ đã đặt ra nền tảng để giành lấy giải pháp. Do quyết tâm và lòng dũng cảm của tôi, một giải pháp chính trị toan ở trong tầm tay vào tháng 10 năm 1972 đã bị xét lại. Vào thời điểm đó, họ đang tìm kiếm một giải pháp. Do đó, họ đã có những cơ hội thể hiện chính bản thân họ -- cụ thể là những rối loạn chính trị nội bộ ở miền nam -- để họ áp đặt giải pháp riêng của họ. Nếu miền Nam vẫn có ổn định chính trị, họ sẽ mất thời gian để tìm ra giải pháp. Họ đã sẵn sàng nắm bắt mọi cơ hội cho phép họ áp đặt một giải pháp chính trị mà có thể gây rắc rối cho miền nam.

Năm 1972, một lần nữa tôi đã chứng minh cho đồng bào thấy rằng tôi không thiếu can đảm và luôn sáng suốt trong lãnh vực chính trị, và rằng tôi không sợ bất kỳ sự đe dọa nào đối với cuộc sống của tôi, tôi chỉ sợ sự đe dọa rằng họ sẽ ngay lập tức cắt đứt tất cả viện trợ kinh tế và quân sự; và với viện trợ quân sự, nếu cộng sản bắt đầu lại cuộc chiến, thì quốc hội Mỹ sẽ không hiệu đính quyết định của họ về việc cắt giảm viện trợ và sẽ không có một xu nào trong viện trợ kinh tế.

Xin thứ lỗi cho tôi nói điều này: tôi chỉ sợ rằng sau khi ký hiệp định Paris vào năm 1973, miền nam sẽ bị mất và người Mỹ sẽ phủi tay trước tình hình nếu cộng sản tiếp tục chiến tranh. Và nếu chúng ta không nhận được bất kỳ viện trợ kinh tế và viện trợ quân sự nào, tôi không dám nói rằng đây là mối đe dọa không đáng sợ. Tôi nghĩ rằng đây là một cơ hội để cho người Mỹ phủi tay, bởi vì họ nói rằng tôi bướng bỉnh, không chịu nổ lực đạt được hòa bình và không chịu ký kết hiệp định khi có cơ hội tốt. Họ mô tả hiệp định Paris là rất tốt trước dư luận Mỹ và dư luận thế giới, do đó, khi tôi đối phó với một dấu chấm, một dấu phẩy hoặc một từ trong hiệp định, họ đã đổ lỗi cho tôi là bướng bỉnh và hiếu chiến. Nếu tôi từ chối ký và chờ đợi một cái gì đó khác, thì đây là cái cớ cho họ cắt viện trợ kinh tế, quân sự và bỏ rơi chúng ta một cách dứt khoát.

Chúng tôi không ngu ngốc. tôi nghĩ rằng quý vị cũng không quá ngu ngốc để đến nổi không thể thấy trước rằng cộng sản sẽ vi phạm hiệp định Paris. Tôi đã dự đoán điều này kể từ đêm 26 tháng 10 năm 1972 và tôi đã lặp đi lặp lại điều này nhiều lần kể từ đó. Như chúng ta đã thấy, cộng sản đã không tôn trọng Hiệp định 1954 và Hiệp định 1962 về Lào. Họ đã khởi động lại chiến tranh ra sao, mặc dù một chính phủ liên minh lưỡng đảng đã được gầy dựng ở Lào. Và Lào sẽ bị chiếm bởi những người cộng sản, những kẻ mà sẽ thiết lập một chế độ cộng sản hoàn toàn ở Lào. Bởi vì họ thất bại vào năm 1954, họ đã làm những gì họ muốn làm vào năm 1962. Và bởi vì họ đã thất bại vào năm 1962, họ đang làm những gì như chúng ta đang thấy vào năm 1975.

Về tình hình ở Việt Nam, những người cộng sản đã ký hiệp định Geneva năm 1954 vì họ không thể đánh bại hoàn toàn quân Pháp, họ chỉ thắng một nửa đất nước và ký hiệp định với quan điểm đánh đuổi hoàn toàn quân Pháp. Kết quả là quân Pháp rút đi, miền nam trở nên rất yếu bởi vì nó không có một đội quân của riêng mình, chính quyền của miền Nam vẫn còn non nớt và người dân không được tổ chức. Cộng sản tiếp tục chiến đấu vào năm 1955-1556, và đặc biệt đã chiến đấu từ năm 1963-1964. Sau khi họ thất bại vào năm 1968, họ đồng ý tổ chức các cuộc đàm phán hòa bình, và sau đó vào năm 1972, họ lại thất bại trong cuộc chiến và quay trở lại đàm phán hòa bình. Họ nghĩ rằng họ không thể giành chiến thắng vì quân đội Hoa kỳ đã ở đây với máy bay B-52, do đó, ký hiệp định Paris thì sẽ tốt hơn cho họ, sau khi quân đội Mỹ rút đi, với sự trợ giúp của Liên Xô và Trung Cọng, họ sẽ có thể chiếm miền nam.

Tôi đã nói điều này với người Mỹ; nếu có một hàng rào chung quanh miền bắc và miền nam, và nếu người dân miền bắc và miền nam chiến đấu bên trong hàng rào này mà không có viện trợ nước ngoài cho bất kỳ bên nào, các ông có thể nói miền nam thất bại vì nó yếu hơn miền bắc, nhưng điều này thì không đúng.

Ở đây, Hoa Kỳ đã không hỗ trợ cho miền Nam đúng mức trong khi Liên xô và Trung Cọng đã hỗ trợ cho miền bắc mạnh gấp 10 lần. Do đó, nếu ở đây miền nam đang chiến đấu , thì đây không phải là cuộc chiến chống lại một mình miền bắc. Bắc việt không làm được việc gì tốt hơn nam Việt nam, bởi vì nó không thể sản xuất đạn, vũ khí, tên lửa, hoặc xe tăng. Vì vậy, nước Việt Nam Cọng Hoà nhỏ nhoi này đang chiến đấu chống lại Liên Xô và Trung Cọng, trong khi đồng minh của miền Nam không bảo vệ và giúp đở họ. Và hiện tại, Hoa Kỳ đã cắt giảm viện trợ kinh tế và viện trợ quân sự cho miền Nam Việt Nam.

Một số người Mỹ và một số nghị sĩ Mỹ cho rằng chừng nào ông Thiệu còn nắm quyền, thì không thể có đàm phán : ông Thiệu không phải là con người đồng ý đàm phán; ông Thiệu thì hiếu chiến và từ chối thi hành hiệp định Paris, chừng nào ông Thiệu còn nắm quyền, viện trợ của Mỹ không thể được đưa vào đầy đủ vì chừng nào ông ấy nhận được viện trợ của Mỹ, ông ấy sẽ tiếp tục chiến tranh và sẽ không đồng ý thương lượng.

Đây là kế hoạch của Mỹ nhằm ngừng cung cấp viện trợ cho chúng ta để họ phủi tay với chúng ta. Đây là một kế hoạch của những kẻ đã hoàn toàn mất đi lương tâm và nhân tính, hoặc đây là ý kiến của những người hiểu sai về tôi, do đó, hôm nay tôi xin từ chức.

Chúng ta sẽ xem liệu các cuộc đàm phán có dẫn đến một hiệp định thỏa đáng cho cộng sản và miền nam Việt nam khi ông Thiệu không còn cầm quyền nữa hay không. Nếu câu trả lời khẳng định rằng có, đó là điều mà nhân dân chúng ta và nhân dân thế giới rất hoan nghênh. Nếu với sự ra đi của ông Thiệu, mà viện trợ phong phú của Mỹ sẽ được cung cấp ngay lập tức để giúp các lực lượng vũ trang của Việt Nam Cọng Hòa quản lý được tình hình chiến đấu, đây là một điều gì đó rất may mắn cho chúng ta, và sự ra đi của tôi chỉ như một hạt cát trong sa mạc.

Đó là một hành động không đáng kể về phía tôi, nhưng rất đáng để hy sinh. Trao đổi một vị trí tổng thống để có đầy đủ, và thậm chí còn dồi dào nhằm giúp đỡ các lực lượng vũ trang Việt Nam Cọng Hòa cùng mọi người tiếp tục cuộc chiến để bảo vệ đất nước, và sau đó đàm phán một giải pháp bảo đảm cho một miền nam Việt nam tự do và dân chủ, và sẽ không bị cai trị bởi những người cộng sản -- điều đó vượt xa sự mong chờ của tôi và tôi sẽ thực sự biết ơn người Mỹ.

Nhưng, nếu họ nói rằng chừng nào ông Thiệu còn nắm quyền, nên không thể tiến hành đàm phán và do đó không thể cung cấp viện trợ cho chúng ta. Và nếu họ xử dụng tôi như một cái cớ cho sự thảnh thơi của họ khi phủi tay với chúng ta, bất kể lương tâm của họ, bất kể ý thức trách nhiệm của họ, bất kể công bằng và nhân đạo; thì đây là một vấn đề khác sẽ được lịch sử và nhân dân thế giới phán xét.

Bây giờ hơn một nửa đất nước đã bị mất vào tay cộng sản, chính phủ Hoa Kỳ nói rằng tình hình phải được ổn định để tiến hành đàm phán, và rằng sự ổn định tình hình và vị thế quân sự của chúng ta phải được ổn định trước các cuộc đàm phán. Chúng ta không thể ổn định vị thế quân sự của chúng ta bằng nước bọt, mà bằng súng, đạn và rất nhiều vũ khí phải được nhanh chóng cung cấp cho chúng ta với số lượng đầy đủ. Chúng ta không thể ổn định vị thế quân sự của chúng ta với những tranh cãi, mà đã kéo dài trong 1 năm, về việc viện trợ Mỹ giảm từ 700 triệu USD xuống còn 300 triệu USD, người Mỹ đã từ chối chấp thuận viện trợ cho chúng ta số tiền đó, và họ đang mặc cả với giá 340 triệu đô la, 350 triệu đô la,, 355 triệu đô la, hoặc 360 triệu đô la,.

Danh dự của quốc gia đồng minh và số phận của một trong những đồng minh của họ đang được mặc cả theo cách tương tự như khi mua cá ở ngoài chợ. Tôi rất lấy làm tiếc rằng tôi không thể chấp nhận điều đó. Tôi không thể vì vị trí tổng thống của tôi mà làm khó nhân dân Việt nam và gây nên tổn hại cho mạng sống của các chiến sĩ vốn bị thiếu đạn dược trong khi đang chiến đấu. Tôi không thể để cho nhân dân chúng ta trả giá số phận của mình bằng 1 triệu đô la, hoặc 2 triệu đô la trong những cuộc mặc cả kéo dài hàng tháng mà kết quả không rõ ràng và bấp bênh.

Đây là một trong những lý do khiến tôi từ chức, tôi sẽ xem xét nếu tôi chỉ là một cái cớ hoặc là nguyên nhân thực sự.

Điểm thứ hai (như đã nghe) là chúng ta đừng nên để ý đến những tuyên bố và tuyên truyền của cộng sản. Tôi mong rằng nhân dân Việt Nam của chúng ta đủ trưởng thành và khôn ngoan, đừng tin vào lời nói của cộng sản. Sự thật vẫn là sự thật, một số bộ phận trong dư luận công chúng thế giới đã bị đầu độc, bởi vì họ ngây thơ, ngu dốt và không đủ kinh nghiệm để nhận ra bản chất của cộng sản. Một số bộ phận của dư luận Mỹ đã bị đầu độc. Một số người tuyên bố đứng ngoài giới chính trị thế giới cũng đã bị đầu độc.

Do đó cộng sản đã tuyên bố rằng chừng nào ông Thiệu vẫn còn tại vị, thì không thể có đàm phán và hòa bình; rằng chừng nào mà "ông Thiệu còn tại vị, chúng tôi sẽ tiếp tục chiến đấu; và chừng nào ông Thiệu còn tại vị, Liên Xô và Trung Cọng sẽ tiếp tục viện trợ cho bắc việt, và bắc việt sẽ chiến đấu giành chiến thắng bởi vì Hoa kỳ không còn cung cấp viện trợ cho miền nam Việt Nam".

Tôi không sợ những gì cộng sản nói, bởi vì tôi tin rằng đa số áp đảo người dân Việt Nam giàu kiến thức và kinh nghiệm, Tuy nhiên, tôi phải sẵn sàng thừa nhận rằng thực tế là có một số bộ phận dư luận đã bị đầu độc và họ đã gây ảnh hưởng bất lợi đến ý tốt của thế giới sẽ hỗ trợ cho Việt Nam Cọng Hòa qua viện trợ kinh tế và viện trợ quân sự. Điều này là do một số bộ phận dư luận nhất định đã bị đâm thọc với cáo buộc rằng nếu ông Thiệu từ chức thì sẽ có cách giải quyết thỏa đáng, chiến tranh và bạo loạn sẽ kết thúc, và hòa bình thế giới sẽ được vãn hồi.

Điểm thứ ba là trong hàng ngũ nội bộ của miền nam, một số nhóm tôn giáo, một số bộ phận dân chúng, một số chính trị gia và một số nhóm chính trị -- những kẻ đang ăn cơm quốc gia và đang được bảo vệ bởi các lực lượng vũ trang và những chiến sĩ, những người hàng ngày đang hy sinh xương máu của họ -- đã thừa nhận rằng nếu như tôi rời khỏi chính trường thì cọng sản cũng không đàm phán và không đặc trưng cho việc Hoa kỳ sẽ cung cấp viện trợ hào phóng cho miền Nam. Họ tin rằng sự sắp xếp trước trong hiệp định đã được thực hiện, rằng người Mỹ đã phủi tay với chúng ta, và rằng ông Thiệu bị xử dụng chủ yếu bởi cọng sản chỉ như là cái cớ. Do đó, những quý ông này đã xác định rõ ràng và công bằng rằng, vấn đề rắc rối thực sự không phải là ông Thiệu, ông ta chỉ là nạn nhân cho những kẻ đổ lỗi nhằm tìm kiếm một cái cớ để ruồng bỏ Việt Nam.

Mặt khác, một số nhóm tôn giáo, một số chính trị gia, một số tổ chức quần chúng và một số người nổi tiếng đã nói : ông Thiệu nên rời khỏi chức vụ và hãy để chúng tôi đàm phán với cọng sản. Nam Việt Nam nhất định sẽ có tự do, dân chủ và cọng sản phải đồng ý với điều đó. Sẽ không có liên hiệp nào hết. Cọng sản sợ Mỹ và tôn trọng Mỹ. Cho dù chúng ta không đồng quan điểm với Mỹ, cọng sản sẽ tôn trọng Mỹ và chấp nhận đề xuất của riêng phía Mỹ. Chúng ta sẽ ghi được bàn thắng mà không phải chiến đấu.

Quan điểm của những kẻ và những nhóm này hiện có tiếng nói mạnh mẻ. Tôi không biết liệu họ nói điều này vì họ quá tự tin, vì họ bị ảo tưởng, hay họ buộc phải nói như vậy bởi một số động cơ nào đó thúc đẩy.

Họ đã nói rằng chừng nào ông Thiệu còn nắm quyền, thì không thể có thống nhất đất nước, do đó, không thể mong chờ chiến thắng nào và cọng sản sẽ không bị đánh bại. Họ đã nói rằng chừng nào ông Thiệu còn nắm quyền, cọng sản sẽ tiếp tục chiến đấu và sẽ chiếm được toàn bộ miền Nam và nhân dân chúng ta sẽ chịu đau thương nhiều hơn và chết chóc nhiều hơn. Họ đã nói rằng chừng nào ông Thiệu còn nắm quyền, người Mỹ sẽ không cung cấp viện trợ cho chúng ta và quân đội của chúng ta sẽ không thể chiến đấu.

Thậm chí một số anh em quân nhân của chúng ta, họ hoặc là khá nhẹ dạ cả tin hoặc là nạn nhân bị tuyên truyền - một guồng máy tuyên truyền mạnh mẽ nhắm đổ mọi tội lỗi cho ông Thiệu cũng như họ đã đổ cho ông Diệm là người gây ra lỗi lầm hồi năm 1963. Thưa quý vị, thưa đồng bào, quý vị đã biết nguồn gốc của sự tuyên truyền này - một số người nói rằng, chừng nào ông Thiệu còn nắm quyền thì người Mỹ sẽ bị giết chết, và vợ con chúng ta cũng sẽ như vậy. Cuộc chiến đấu sẽ không thể được kiểm soát, tình hình quân sự sẽ không được ổn định và không có cuộc đàm phán nào sẽ được tổ chức. Do đó, tổng thống Thiệu phải rời khỏi chức vụ để chúng ta có đủ viện trợ nhằm tiến hành chiến đấu để ổn định tình hình, tiến hành đàm phán và bảo vệ miền Nam tự do.

Cọng sản đã thành công trong việc xử dụng những lập luận này trong tuyên truyền của họ để lừa dối dư luận thế giới và dư luận Hoa kỳ. Ở Việt Nam, tôi tìm thấy rằng có xu hướng mạnh mẽ đối với mọi thứ. Hòa bình không thể có được vì tôi. Nhân dân muốn chiến đấu và chiến thắng, nhưng họ bị ngăn cản làm được như vậy, điều đó cũng vì tôi. Do đó, tôi thực hiện hành động chính đáng bằng việc hy sinh cá nhân tôi và vị trí của tôi.

Tại sao tôi từ chức vào ngày nay ? vấn đề viện trợ sẽ được bàn thảo một cách cẩn thận ở Hoa kỳ vào hôm nay và những con số như 350 triệu đô la, 355 triệu đô la và 360 triệu đô la đã được xúc tiến giống như mọi người mặc cả giá tiền khi mua thứ gì đó. Nhưng ở quốc hội Mỹ không một con số nào vượt qua mức 722 triệu đô la theo yêu cầu của tổng thống Mỹ.

Con số 722 triệu đô la mà tổng thống Mỹ Gerald Ford yêu cầu từ quốc hội sẽ không đủ cho nam Việt nam và các lực lượng vũ trang của họ ngăn chặn cộng sản bắc việt và ổn định tình hình quân sự nhằm bắt đầu những cuộc đàm phán nghiêm túc. Cộng sản biết điều này, và họ chỉ còn cách lợi dụng chiến thắng của họ để thúc đẩy một chiến thắng quân sự mà không cần đàm phán.

Để đạt được mục tiêu mà Hoa kỳ mong đợi - đó là, ổn định tình hình quân sự để có được đàm phán tiến hành trên cơ sở hiệp định Paris, và do đó đạt được một giải pháp chính trị - thì phải có hơn 722 triệu đô la. Hơn nữa, phải có B-52 để trừng trị cộng sản ở miền nam và, nếu có thể, cũng trừng trị cộng sản ở miền bắc. Đó là nhất thiết cần có xe tăng, pháo hạng nặng, trang thiết bị, súng nhỏ và súng lớn, thiết bị tín hiệu và đạn dược, những thứ này phải được gửi liên tục, liên tục, liên tục và ngay lập tức, ngay lập tức, ngay lập tức. Vấn đề không phải là vài tháng hay vài tuần, mà đúng hơn là vấn đề của từng ngày. Những vật liệu này phải đầy đủ dồi dào để trang bị lại cho các sư đoàn, và trang bị cho nhiều sư đoàn chính quy để chiến đấu với 20 sư đoàn của bắc việt.

Tôi thách thức - giả sử quân đội Việt Nam Cộng Hòa rút lui - quân đội Hoa kỳ đến đây với con quân số có sức mạnh tương đương với quân đội Việt Nam Cộng Hòa và với cùng số lượng vũ khí và đạn dược và không có B-52, quân đội Hoa kỳ sẽ có thể đương đầu được với cộng sản bao nhiêu ngày ? vậy làm sao mà chúng ta có thể nói chúng ta làm được điều đó?

Do đó, thật là phi logic, không công bằng và lý sự cùn khi nói rằng tôi là một người không muốn thương lượng. Nếu tôi không có thiện chí đàm phán thì làm sao mà hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 đã được ký kết ? mặc dù hiệp định đó đã bị tê liệt. Tôi đã phải chấp nhận nó. Tôi đã thể hiện thiện chí tối đa khi chấp nhận nó. Chúng ta đã thể hiện thiện chí tối đa trong việc chấp nhận văn bản của một hiệp định vốn không đáp ứng được những lý tưởng và tiêu chuẩn của chúng ta. Chúng ta mong đợi hai điều : thiện chí của cộng sản và những chủ nhân của họ - Liên Xô và Trung Cọng. Điều thứ 2 mà chúng ta mong đợi là hành động mạnh mẽ ở cấp cao, đó là Hoa Kỳ, Liên Xô và Trung cọng. Điều thứ ba mà chúng ta mong đợi là có đủ viện trợ kinh tế và quân sự để cho phép chúng ta đương đầu với bắc việt, không có điều gì trong những điều này được trở thành sự thật.

Người Mỹ đã chiến đấu với cuộc chiến ở đây mà không thành công và đã về nhà, kế hoạch Việt nam hóa đã hoạt động và chúng ta chấp nhận nó, nhưng việc thực hiện đã bị treo lơ lững. Sau khi đình chỉ Việt nam hóa, đã có lời hứa rằng nếu cọng sản xâm phạm và xâm lược trở lại, sẽ có phản ứng, nhưng đã chẳng có phản ứng nào. Vậy, điều tối thiểu phải làm là cung cấp cho chúng ta trang thiết bị để chiến đấu, nhưng chả cung cấp gì cả. Tầm quan trọng của việc này là để làm gì ? Thực chất của việc này là sự vi phạm lời hứa, không công bằng, thiếu trách nhiệm và vô nhân đạo với một đồng minh đang tiếp tục gánh chịu đau khổ - là sự né tránh trách nhiệm của một siêu cường.

Do đó, tôi nghĩ rằng phó tổng thống Hương, giống như tôi - một người yêu nước biết cách thương lượng, là người có thiện chí thương lượng. bất kỳ chính phủ nào -- hoặc là chính phủ của thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn hoặc chính phủ tiếp theo có thể được thành lập bởi tổng thống Hương - phải là một chính phủ của đàm phán mà sẽ nói rõ ràng với Hoa Kỳ và thế giới và cộng sản rằng, chúng tôi sẽ mang va-li đến Paris để ngồi xuống và đợi các ông bước vào hội trường đàm phán mà không có điều kiện tiên quyết. Một khi bước vào hội trường đó, các ông có thể nói về việc loại bỏ hiệp định Paris hoặc bất cứ điều gì, miễn là có ngay lập tức một cuộc đối thoại mà không có điều kiện tiên quyết nào. và tổng thống Hương cùng chính phủ hãy yêu cầu cộng sản bắc việt chấm dứt ngay mọi hành động xâm lược vũ trang trong những ngày tới, để tiếp tục đàm phán một cách nghiêm túc.

Đồng thời, tổng thống Hương và chính phủ hãy kêu gọi Hoa Kỳ cung cấp viện trợ ngay lập tức và đầy đủ. Nếu Hoa kỳ cho rằng điều đó là cần thiết để ổn định tình hình quân sự nhằm đặt nền móng cho các cuộc đàm phán nghiêm túc, thì viện trợ phải đầy đủ, nhanh chóng và kịp thời để cho phép chúng ta đàm phán. Phải kêu gọi ngăn chặn hành động quân sự của phe kia và yêu cầu họ nối lại đàm phán.

Lý do tôi từ chức hôm nay là thực tế rằng hôm nay Quốc hội Hoa Kỳ sẽ xem xét kỹ lưỡng vấn đề viện trợ. Tôi nghĩ rằng sau khi tôi từ chức hôm nay, có lẽ vào ngày mai số tiền 320 triệu đô la sẽ được tăng lên 722 triệu đô la hoặc hơn một tỷ đô la, và sau đó một cuộc không vận liên tục sẽ mang lại cho chúng ta xe tăng và pháo hạng nặng. Kể từ khi ông Thiệu ra đi, thì ở đây có viện trợ, viện trợ và viện trợ nhiều hơn nữa. Tôi hy vọng như vậy. Chúng ta hãy đợi và xem liệu quốc hội Mỹ có sẽ làm như vậy hay không.

Bây giờ, tôi hy vọng rằng, với tình hình quân sự căng thẳng ở quân khu III và quân khu IV, sau khi ông Thiệu ra đi và tổng thống Hương đã lên nắm quyền, có lẽ Hoa kỳ sẽ kêu gọi Liên Xô, Trung cộng và dư luận thế giới sẽ kêu gọi cộng sản chấm dứt ngay lập tức cuộc tấn công quân sự và mở lại các cuộc đàm phán. Một điều như vậy có thể đạt được trong 3 hoặc 4 ngày hoặc một tuần. Nếu tôi đợi đến ngày mai hoặc ngày mốt mới từ chức, và nếu cộng sản phát động cuộc tấn công, sau đó tôi sợ rằng có thể đã quá muộn. Lúc đó họ sẽ nói rằng đã quá muộn để kìm lại. Rồi thì nếu Hoa kỳ, quốc hội Hoa kỳ phê chuẩn chỉ 350 triệu đô la, họ sẽ nói: chúng tôi rất tiếc, nhưng đã là quá muộn để chúng tôi quyết định 350 triệu đô la; chúng tôi không thể tăng nó lên 722 triệu đô la.

Không chóng thì chầy, tôi nghĩ rằng sự hy sinh của tôi hôm nay sẽ giúp thuyết phục thay đổi một vài khía cạnh ở tình hình viện trợ quân sự tại Hoa kỳ và thay đổi tình hình quân sự trên chiến trường miền Nam. Tổng thống Hương và chính phủ có đủ thiện chí để làm điều này.Tôi cũng đã có thiện chí. Tôi đã thực hiện một số kêu gọi, ngay cả khi bom và đạn đang bay trên đầu. Tôi đã nêu ra một thỉnh cầu vào hôm mồng 4/4. Thậm chí hôm nay khi từ chức, tôi vẫn kêu gọi, tuy nhiên, họ vẫn nói rằng tôi là một kẻ hiếu chiến.

Do đó, thưa quý vị, thưa đồng bào, thưa quý anh chị em, lương tâm của tôi -- tiếng nói của lương tâm tôi -- buộc tôi phải lựa chọn giữa hai con đường,

Tôi có thể tiếp tục làm tổng thống, để lãnh đạo cuộc kháng chiến của mọi lực lượng vũ trang và nhân dân. Tuy nhiên, tôi không có khả năng cung cấp đầy đủ phương tiện cho quân đội chiến đấu, hơn nữa, tôi cũng có thể bị người dân hiểu lầm tôi là trở ngại cho hòa bình và là tôi đang tiếp tục gây ra tang tóc, hủy diệt, đau khổ, chết chóc và đổ nát. Dư luận thế giới tiếp tục nói rằng tôi là nguyên nhân thực sự để hiện nay miền nam không có hòa bình. Chúng ta hãy chờ xem liệu quốc hội Mỹ có chứng minh rằng tôi là nguyên nhân hay xử dụng tôi như một cái cớ cho việc cắt giảm viện trợ quân sự,

Giải pháp thứ hai là từ chức, đây là một trong những điều mà tôi đã nói từ đầu, tôi nghĩ rằng việc từ chức của tôi là một sự hy sinh rất nhỏ nếu mọi người dân và lực lượng vũ trang của chúng ta nhận được viện trợ dồi dào để chiến đấu và bảo vệ lãnh thổ còn lại. Và nếu không có sự hiện diện của tôi, tương lai đàm phán với cộng sản có thể giúp bảo vệ một miền nam tự do, dân chủ và người dân nam Việt nam đạt được quyền tự quyết theo tinh thần của hiệp định Paris. Tôi kêu gọi tất cả mọi người, mọi tổ chức, mọi tôn giáo và các chính trị gia, những người cho đến nay vẫn gọi tôi là một trở ngại đối với hòa bình và coi tôi là bất lực trong việc mang lại hòa bình, bảo vệ miền nam và không thể đánh bại cộng sản và vãn hồi hòa bình, và do đó chỉ gây ra tang tóc và đau khổ; quý vị hãy vì lợi ích của tổ quốc và tình yêu đối với nhân dân, hãy giúp đỡ tổng thống Trần văn Hương trong việc mang lại hòa bình, danh dự, tự do, thịnh vượng và dân chủ, hãy giúp đỡ tổng thống Trần văn Hương trong việc bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh hiệp định Paris với cộng sản, buộc họ phải tôn trọng nó, và đạt được việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết của nhân dân miền nam theo quy định ở hiệp định Paris. Tóm lại, tôi không muốn bất cứ ai xử dụng tôi -- tổng thống Nguyễn văn Thiệu -- hay cá nhân tôi như một cái cớ để ngược đãi dân tộc này, những người đó, kể từ thời điểm này trở đi, không còn có thể xử dụng cái cớ đó và bây giờ phải thể hiện sự chân thành và trung thực của họ.

Thưa quý vị, thưa đồng bào, thưa anh chị em:

Tôi đã phục vụ đồng bào, anh chị em trong 10 năm qua, như tôi đã nói, tôi không thiếu can đảm, không có bất kỳ cuộc biểu tình hay vu khống nào có thể làm tôi nản lòng và phá hoại lòng dũng cảm của tôi, thúc đẩy tôi rời khỏi chức vụ với hành vi vô cảm và vô trách nhiệm, không có áp lực nào của đồng minh hoặc khó khăn nào trong đấu tranh chống lại cộng sản khiến tôi trốn tránh trách nhiệm và rời khỏi chức vụ.

Các tổng thống của một số nước lớn hãnh diện với thực tế rằng họ đã trải qua 6, 7 hoặc 10 cuộc khủng hoảng, họ đã viết những cuốn sách mà trong đó họ tự hào coi mình là anh hùng và là những chính trị gia nổi tiếng. Còn tôi, hơn 10 năm qua, mọi năm, tháng, ngày, giờ trong cuộc đời tôi đều xấu, như được dự báo trong lá số tử vi của tôi. Liên quan đến số phận của tôi, tôi có thể tận hưởng niềm hạnh phúc; tôi chưa được tận hưởng hạnh phúc, nhưng tôi không tìm kiếm cách để tận hưởng cuộc sống. Một người cai trị đất nước có thể tận hưởng hoặc là danh dự hoặc là ô nhục. Anh ta phải chấp nhận điều này để anh ta có thể lãnh đạo nhân dân. Nếu tôi có một số điểm tốt thì đồng bào sẽ khen ngợi tôi ngay cả khi tôi không muốn, nhưng nếu tôi có một số điểm xấu và lỗi lầm, tôi sẵn sàng chấp nhận sự phán xét và sự buộc tội từ đồng bào.

Hôm nay, khi rời nhiệm sở, tôi xin đồng bào, chiến sĩ và cán bộ, cùng các tổ chức quần chúng và các tôn giáo, tha thứ cho những lỗi lầm mà tôi đã phạm phải với quốc dân trong suốt nhiệm kỳ tổng thống của tôi. Tôi muốn cảm ơn mọi cơ quan hội đồng được thành lập theo hiến pháp, các tổ chức, tôn giáo, cá nhân, quý đồng bào từ mọi tầng lớp xã hội khác nhau, cùng các anh chị em chiến sĩ và cán bộ đã hợp tác giúp đỡ tôi qua bao thăng trầm của đất nước cho đến hiện nay. Tổ quốc chúng ta sẽ mãi mãi tưởng nhớ công lao của quý đồng bào cùng những vị ũng hộ này, và với tư cách cá nhân, tôi cũng sẽ lưu giữ họ trong ký ức của tôi.

Tôi từ chức nhưng không đào ngũ., từ giờ phút này, tôi tự đặt bản thân tôi phục vụ cho tổng thống, phục vụ cho nhân dân và quân đội. Khi tôi rời khỏi chức vụ, ông Trần văn Hương sẽ trở thành tổng thống và đất nước của chúng ta sẽ không mất mát bất cứ điều gì. Có lẽ, đất nước chúng ta lại sẽ chiến đấu trên chiến trường. Tôi sẽ kề vai sát cánh cùng đồng bào và các chiến sĩ để bảo vệ đất nước.

Tôi xin cảm ơn đồng bào, quý vị, quý anh chị em chiến sĩ và cán bộ trên cả nước, và tôi xin nói tạm biệt cùng mọi người. Tôi muốn lặp lại yêu cầu của tôi rằng, quốc hội lưỡng viện và tòa án tối cao cho phép phó tổng thống Trần văn Hương tuyên thệ nhậm chức tổng thống trước sự hiện diện của quý vị, theo điều 55 của hiến pháp.

Cảm ơn quý vị.

   - HẾT -.

Trần HSa lược dịch từ văn bản của cơ quan Hoa Kỳ ( không phản đối giải mật toàn bộ 2010/06/15 : loc-hak-244-10-4-5)… 27/04/2023.

Bài đăng phổ biến từ blog này

Máy bay ném bom tiên tiến nhất của Trung Quốc được nhìn thấy trên đảo tranh chấp ở Biển Đông.

Vụ sát hạch hạt nhân của Trump.

Đã đến lúc Thượng viện GOP nổi dậy về các biện pháp trừng phạt chống lại Putin.